Những cú lừa bạc tỷ từ chính giấc mộng thoát nghèo
Trong năm 2023–2025, lực lượng công an cả nước đã điều tra hàng chục vụ án lừa đảo XKLĐ với quy mô lớn, số tiền chiếm đoạt lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Điển hình là vụ Nguyễn Đức Nam và Nguyễn Thị Quỳnh Nga – lãnh đạo doanh nghiệp XKLĐ ở Hà Nội – đã bị bắt vì lập hồ sơ tuyển dụng “ma”, thu hàng chục tỷ đồng của người lao động rồi không tổ chức xuất cảnh như cam kết.
Tại TP HCM, vụ án liên quan đến Công ty Hoàng Long – Incoop 3 – Sona gây chấn động dư luận: các đơn vị này đã thu phí trái quy định, lập khống chứng từ kế toán, chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng.
Ở Cần Thơ, Thái Mộng Cầm đã chiếm đoạt hơn 5 tỷ đồng của 349 người dân bằng chiêu trò "đi Hàn Quốc không cần ngoại ngữ, visa nhanh" trước khi bỏ trốn.
Mảnh đất màu mỡ cho lừa đảo sinh sôi
Thủ đoạn của các đối tượng ngày càng tinh vi, như: giả danh cán bộ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, làm giả visa, lập công ty "ma", thuê văn phòng sang trọng, sử dụng mạng xã hội quảng cáo “việc nhẹ – lương cao – đi nhanh”...
Nạn nhân chủ yếu là người dân nghèo, thiếu hiểu biết pháp luật, sẵn sàng vay mượn, cầm cố tài sản để nộp tiền cho những “giấc mơ đổi đời”.
Hậu quả không chỉ là thiệt hại kinh tế (từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đồng/người), mà còn là khủng hoảng tâm lý, mất niềm tin vào chính sách, gia đình tan vỡ, khiếu kiện phức tạp tại địa phương.
Còn bất cập trong triển khai pháp luật về XKLĐ
Hệ thống pháp luật về XKLĐ đã được hoàn thiện, đặc biệt với Luật số 69/2020/QH14 (Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng). Tuy nhiên, thực tế triển khai lại cho thấy nhiều bất cập:
Hậu kiểm lỏng lẻo: Nhiều doanh nghiệp sau khi được cấp phép đã không được kiểm tra thường xuyên; báo cáo không trung thực vẫn không bị xử lý.
Thông tin thiếu minh bạch: Người dân không được tiếp cận kịp thời các danh sách “đen” hay hướng dẫn pháp lý cần thiết.
Phân cấp thiếu rõ ràng: Trung ương cấp phép nhưng không kiểm soát được hoạt động tại địa phương; trong khi địa phương lại thiếu thẩm quyền và kinh phí để giám sát.
Chế tài chưa nghiêm: Nhiều vụ việc bị kéo dài, chỉ xử phạt hành chính, không đủ sức răn đe.
Cần xây dựng nền tảng quản lý XKLĐ
Từ những bất cập nêu trên cho thấy cần xây dựng nền tảng quản lý về XKLĐ, cụ thể:
Rà soát toàn diện, siết chặt cấp phép và hậu kiểm doanh nghiệp:
Cần tổ chức kiểm tra toàn bộ doanh nghiệp XKLĐ đang hoạt động. Những đơn vị vi phạm, hoạt động kém hiệu quả phải bị đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép. Tổ công tác liên ngành cấp tỉnh cần được thành lập để giám sát thường xuyên và tiếp nhận phản ánh từ người dân.
Minh bạch thông tin và phổ biến sâu rộng:
Cần thiết lập Cổng thông tin quốc gia về XKLĐ, cung cấp công khai danh sách doanh nghiệp uy tín, thị trường tiềm năng, cảnh báo rủi ro, và mức phí chuẩn từng nước.
Xử lý hình sự nghiêm minh, kể cả người tiếp tay:
Cần truy tố nhanh, công khai các vụ án lớn, đồng thời xử lý cả những cán bộ bao che, cấp phép sai hoặc làm ngơ cho sai phạm.
Thành lập quỹ hỗ trợ nạn nhân:
Cần xây dựng Quỹ hỗ trợ pháp lý – tài chính cho người lao động bị lừa đảo, với sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Quỹ này sẽ chi trả phí luật sư, hỗ trợ khởi kiện và hỗ trợ tối thiểu cho người lao động mất trắng.
Ứng dụng công nghệ số để quản lý xuyên ngành:
Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số hóa toàn quốc về XKLĐ, liên thông giữa Bộ LĐ-TB&XH – Bộ Công an – Bộ Ngoại giao – chính quyền địa phương, giám sát toàn bộ quá trình tuyển dụng, đào tạo, xuất cảnh, làm việc và hồi hương của người lao động.
Không để giấc mơ đổi đời trở thành bi kịch
Xuất khẩu lao động là chính sách nhân văn, mang lại hy vọng cho hàng triệu người. Nhưng nếu không siết chặt kỷ cương, không có hành động thực chất, chính sách này có thể bị thao túng bởi các thế lực trục lợi, để lại hậu quả khôn lường.
Đã đến lúc Nhà nước phải tái cấu trúc toàn diện công tác quản lý XKLĐ – từ luật pháp, tổ chức thực hiện, công khai minh bạch đến bảo vệ người lao động – để khôi phục niềm tin và giữ gìn uy tín quốc gia.