Theo đó, HĐXx tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Nguyệt 7 năm 6 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”. Các bị cáo còn lại bị tuyên từ 27 tháng tù đến 5 năm tù theo đúng tội danh bị truy tố, trong đó, nhiều bị cáo được hưởng án treo.
Cụ thể, Phạm Anh Tuấn (SN 1984, chồng Nguyệt) bị tuyên 5 năm tù, Nguyễn Văn Thắng (SN 1985, cháu ruột Nguyệt) 4 năm tù, Nguyễn Thị Nga (SN 1988, vợ của Thắng) 3 năm 6 tháng tù, Nguyễn Thị Hà (SN 1979, chị dâu Nguyệt) 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo…
HĐXX nhận định, hành vi của các bị cáo đã xâm phạn quản lý trật tự xã hội, kinh tế, gây thiệt hại cho nhà nước, ảnh hưởng đến các cơ quan tổ chức, gây bất bình cho nhân dân. Trong vụ án này, tòa án xác định Nguyệt có vai trò cao nhất. Nguyệt là chủ mưu, khởi xướng, trực tiếp điều hành mạng lưới vận chuyển tiền qua biên giới và thu lời hơn 25 tỷ đồng.
Bị cáo Tuấn trợ giúp cho Nguyệt khi Nguyệt ốm hoặc bận việc. Ngoài ra, Tuấn cũng tham gia điều hành mạng lưới trên, điều hành 2 công ty để thực hiện việc chuyển tiền ra nước ngoài, thu lời hơn 6 tỷ đồng.
Một số bị cáo giữ vai trò đồng phạm tham gia ký hồ sơ, hợp thức hóa hợp đồng kinh tế, hợp pháp hóa việc vận chuyển hàng hóa. Các đối tượng còn lại tham gia lập các tài khoản ngân hàng, giao dịch chuyển tiền qua ngân hàng, lập tờ khai online, tờ khai hải quan.
Theo HĐXX, các bị cáo thực hiện hành vi nhiều lần, chuyển hơn 30.000 tỷ đồng ra nước ngoài. Tuy nhiên, các bị cáo đều có nhân thân tốt, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra… nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ.
Theo cáo buộc, từ năm 2016, do có một số đối tượng có nhu cầu thuê chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, Nguyệt mua hồ sơ tạm nhập, tái xuất của Phạm Hữu Thuật để hợp thức việc chuyển tiền.
Sau khi nắm bắt được thủ đoạn và cách thức chuyển tiền trái phép, năm 2017, Nguyệt bàn với chồng là Phạm Anh Tuấn “làm ăn lớn”.
Tài liệu điều tra thể hiện, vợ chồng Nguyệt đã mượn chứng minh nhân dân của người thân trong gia đình để lập ra 8 công ty. Sau đó, Nguyệt và các đồng phạm đã sử dụng các pháp nhân “bình phong” trên để ký hợp đồng kinh tế khống mua hàng hóa là IC điện thoại thông minh của các công ty tại Singapore, rồi bán cho các công ty tại Trung Quốc theo hình thức tạm nhập tái xuất để có tờ khai hải quan. Từ đó, các bị cáo lập hồ sơ chuyển tiền trái phép ra nước ngoài.
Cơ quan chức năng xác định tổng số tiền Nguyệt chuyển trái phép ra nước ngoài là hơn 30.498 tỷ đồng, thu lời bất chính hơn 30,4 tỷ đồng.
Để quản lý dòng tiền nhận từ khách hàng để chuyển ra nước ngoài, Nguyệt giao cho Nguyễn Minh Khang, Nguyễn Văn Việt và các giám đốc công ty khác thực hiện việc rút, nộp và chuyển tiền.
Sau khi hợp thức và có đủ hồ sơ tạm nhập, tái xuất hàng hóa, Nguyệt và Tuấn trực tiếp thỏa thuận với khách hàng về tỷ giá quy đổi ngoại tệ và công chuyển tiền. Số tiền của khách hàng được chuyển vào tài khoản cá nhân của Nguyệt và đồng phạm rồi chuyển lòng vòng vào tài khoản các công ty để thực hiện giao dịch quy đổi ngoại tệ và chuyển tiền ra nước ngoài. Tuy nhiên cũng có khách hàng lại chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản các công ty.
Nguyệt còn chỉ đạo Phạm Việt Hùng soạn mẫu phụ lục hợp đồng nội dung bên bán hàng ủy quyền cho bên thứ ba nhận tiền thanh toán từ bên mua hàng để hợp thức việc chuyển tiền. Nguyệt và Tuấn còn liên hệ với các ngân hàng tại tỉnh Quảng Ninh và Lào Cai để thực hiện chuyển tiền dưới hình thức thanh toán quốc tế.