Sự công khai đến mức táo tợn đó như minh chứng, thách thức pháp luật, thách thức các nhà quản lý.
Những vụ việc đủ gây giật mình bất cứ ai thờ ơ nhất
Cần phải khẳng định, các câu chuyện liên quan đến vấn đề buôn bán ĐVHD và gây nuôi thương mại ĐVHD liên tục xuất hiện trên truyền thông, gây lo lắng cho nhiều người. “Đối tượng giết và buôn bán hổ trái phép được cấp phép nuôi hổ bảo tồn - Chuyện thật như đùa?” – đó là tít của nhiều bài báo nói về sự việc đang diễn ra ở Nghệ An.
Theo thông tin từ Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV), tháng 4/2016, Cơ quan quản lý CITES (Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp) Việt Nam đã tiến hành kiểm tra để xác nhận điều kiện cơ sở vật chất chuồng trại của Vườn Động vật Sinh thái Hòn Nhạn (Nghệ An). Nếu đạt đủ điều kiện nuôi nhốt, Vườn Động vật Sinh thái Hòn Nhạn sẽ được phép nhập khẩu thêm 9 cá thể hổ để phục vụ mục đích nhân giống trưng bày và phục vụ giáo dục bảo tồn.
Sự việc sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như chủ cơ sở này không phải là vợ của Phạm Văn Tuấn, một đối tượng “khét tiếng” đã có 2 tiền án về tội phạm liên quan đến giết hại, buôn bán hổ cùng nhiều loài ĐVHD nguy cấp khác. Hiện nay, Phạm Văn Tuấn cũng đang bị nghi ngờ là đối tượng cầm đầu một đường dây chuyên buôn bán, vận chuyển trái phép ĐVHD (bao gồm hổ, tê tê, ngà voi và sừng tê giác) xuyên biên giới Việt Nam – Lào –Thái Lan.
Trả lời chất vẫn của báo chí, cơ quan chức năng tỉnh Nghệ An cho rằng việc cấp phép này cho vợ và không liên quan gì đến người chồng, nhưng liệu có ai dám chắc về điều đó?. “Cấp phép cho vợ Phạm Văn Tuấn gây nuôi hổ đồng nghĩa với việc các cơ quan này đã chính thức thỏa hiệp và tạo điều kiện cho đối tượng có cơ hội lợi dụng danh nghĩa cơ sở được cấp phép để tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ ĐVHD trong tương lai.” - bà Bùi Thị Hà-Phó Giám đốc ENV bày tỏ sự bức xúc.
Cũng theo bà Bùi Thị Hà, “ENV rất quan ngại về sự phát triển các trang trại hổ tại Việt Nam. Qua nhiều năm điều tra, ENV có thể khẳng định rằng hầu hết các trại nuôi hổ hiện nay không hoạt động vì mục đích giáo dục và bảo tồn mà thực chất là để hợp pháp hóa các hoạt động buôn bán hổ bất hợp pháp”.
Tại Việt Nam chỉ còn khoảng 30 cá thể hổ trong tự nhiên. Trong khi đó, các hoạt động buôn bán hổ trái phép tại Việt Nam đang phát triển dưới các loại hình kinh doanh hợp pháp. Theo điều tra của ENV, số lượng hổ bị nuôi nhốt trong các vườn thú và trang trại tư nhân trong những năm gần đây đã tăng vọt từ 81 cá thể (2010) lên tới 179 cá thể (2015).
Tiếp đó là câu chuyện nuôi Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh cấp phép gây nuôi thương mại tê tê. Trong thời gian qua, Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh đã cấp phép cho một số hộ dân tỉnh này gây nuôi thương mại tê tê - loài động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo Nghị định 160/2013/NĐ-CP.
Điều đáng nói là các cơ quan khoa học CITES (Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp) chưa hề xác nhận việc tê tê có khả năng sinh sản liên tiếp qua nhiều thế hệ trong môi trường nuôi nhốt hay nuôi sinh trưởng tê tê không ảnh hưởng tới việc bảo tồn loài này trong tự nhiên.
Để chứng minh tê tê là loài thích hợp để gây nuôi thương mại, Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh đã viện bằng chứng cho rằng Vườn quốc gia Cúc Phương đã thành công trong việc nuôi tê tê sinh sản. Tuy nhiên, ông Trần Quang Phương, Chương trình bảo tồn thú ăn thịt và tê tê – Vườn quốc gia Cúc Phương cho biết:
“Kể từ khi được thành lập từ năm 2005 đến nay, chúng tôi mới chỉ ghi nhận 8 trường hợp sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt nhưng là trong hoàn cảnh cá thể tê tê mẹ đã có thai từ trong tự nhiên trước khi vào Trung tâm và sinh con trong quá trình được chúng tôi cứu hộ. Trong số 8 trường hợp trên chỉ có một trường hợp duy nhất tái thả thành công vào tự nhiên cùng với cá thể mẹ.”
Trong khi đó, qua điều tra của ENV tại trang trại của ông Nguyễn Văn Mỹ - một trong số nhiều cơ sở đã được Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh cấp giấy phép gây nuôi thương mại tê tê, chủ cơ sở thừa nhận thường xuyên mua tê tê con bất hợp pháp để khai báo “tăng đàn”.
Ngày 21/6, TAND quận Tân Bình, TP HCM đã tiến hành xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt đối tượng Phan Huỳnh Anh Khoa hay còn gọi là Khoa Xì trum (sinh năm 1993, cư trú tại quận Gò Vấp) 5 năm tù, phạt bổ sung 50 triệu đồng cho hành vi buôn bán trái phép động vật hoang dã (ĐVHD) nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Khoa chỉ là một trong rất nhiều đối tượng nằm trong tầm ngắm của lực lượng chức năng đã và đang công khai quảng cáo rao bán ĐVHD trên mạng Internet thời gian qua. Trước đó, vào tháng 5/2015, một đối tượng khác chuyên rao bán ĐVHD trên mạng là Đinh Công Thành cũng đã bị cơ quan chức năng bắt giữ cùng tang vật là 44 cá thể rùa thuộc nhiều loài khác nhau.
Thành sau đó đã phải chịu mức án 13 tháng tù giam. Tháng 12/2015, Lê Đức Minh ở Hà Nội cũng đã bị tuyên phạt 27 tháng tù giam sau khi rao bán 3 cá thể cu li trên mạng.
Trong vài năm trở lại đây, loại tội phạm về ĐVHD trên Internet đang gia tăng với tốc độ chóng mặt. Trên các trang mạng xã hội, các website, các diễn đàn, nhiều loài ĐVHD từ sóc, nhím, trăn, rắn, kỳ đà, cá sấu, chuột đến những loài nguy cấp, quý, hiếm như hổ, culi, rái cá được rao bán ngày càng thường xuyên và công khai, thậm chí kèm theo đầy đủ thông tin của người bán.
Phòng Bảo vệ ĐVHD, Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) đã ghi nhận vi phạm quảng cáo ĐVHD và các sản phẩm từ ĐVHD trên Internet đầu tiên vào năm 2008. Tính đến tháng 6/2016, con số này đã lên tới 1.551 vụ việc vi phạm. Cá biệt trong năm 2014, số vụ buôn bán, quảng cáo ĐVHD trên Internet được ENV tiếp nhận và xử lí lên tới 855 vụ việc.
“Cơn say” của 100% cơ sở gây nuôi ĐVHD?
Như đã nói ở trên hiện nay các hoạt động buôn bán ĐVHD nói chung và hổ nói riêng trái phép tại Việt Nam đang phát triển dưới các loại hình kinh doanh hợp pháp và một trong những hình thức đó là gây nuôi thương mại. Từ thực tế này, Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV), đã tiến hành khảo sát 26 cơ sở gây nuôi thương mại ĐVHD lớn tại Việt Nam có quy mô lớn tại các tỉnh, thành phố bao gồm: Hà Nội, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Tây Ninh, Hồ Chí Minh, Đồng Tháp.
Kết quả khảo sát cho thấy, 100% cơ sở có dấu hiệu nhập lậu ĐVHD ở những mức độ khác nhau; 100% các cơ sở cho biết thường xuyên bổ sung các cá thể săn bắt từ tự nhiên; 89% các cơ sở cho biết không áp dụng bất cứ biện pháp nào để ngăn chặn giao phối cận huyết; một số vi phạm phổ biến như: khai báo không trung thực số lượng ĐVHD sinh mới/chết tại cơ sở; mua bán ĐVHD không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp của ĐVHD; mua, bán, tái sử dụng giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp của ĐVHD...
Đặc biệt, theo ENV sự cấu kết giữa các cán bộ kiểm lâm và chủ cơ sở gây nuôi là vấn đề nghiêm trọng trong hoạt động gây nuôi ĐVHD, ảnh hưởng tiêu cực tới nỗ lực bảo vệ ĐVHD và kích thích nhập lậu ĐVHD tràn lan tại các cơ sở này. Hiện tượng cán bộ kiểm lâm nhận những khoản thu bất hợp pháp từ chủ các cơ sở gây nuôi được ghi nhận tại 9 tỉnh thành được khảo sát, trừ Quảng Trị.
76% (14/18) những người được phỏng vấn tại 10 tỉnh thành cho biết cán bộ kiểm lâm có nhận những khoản thu bất hợp pháp từ họ. Phần lớn những khoản thu bất hợp pháp xuất phát từ việc mua bán giấy phép vận chuyển 80% (4/5) số người được hỏi cho biết lực lượng kiểm lâm thường báo trước các đợt kiểm tra sắp tới…
Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng – một trong những người trực tiếp đóng vai người có nhu cầu mở trang trại gây nuôi thương mại ĐVHD đi “học hỏi kinh nghiệm” tại các tỉnh thành cho biết, trong 2 năm anh và cộng sự đã thu thập được vô cùng nhiều bằng chứng chứng minh cho việc các cơ sở gây nuôi được khảo sát có dấu hiệu nhập lậu ĐVHD ở những mức độ khác nhau và luôn có sự tiếp tay của bộ phận kiểm lâm qua nhiều hình thức.
“Khi chúng tôi trưng bằng chứng ghi âm, ghi hình ra thì có ý kiến cho rằng những người trong băng ghi âm, ghi hình say rượu hoặc tâm thần nên mới nói năng hồ đồ và hùng hồn về việc buôn bán ĐVHD như thế (?!). Qua quá trình điều tra tôi khẳng định những chủ cơ sở gây nuôi thương mại toàn đại gia, kinh doanh lọc lõi thì lấy đâu ra tâm thần. Hoặc giả họ có say rượu thì chẳng lẽ cả 26 chủ cơ sở trên 10 tỉnh thành đều say rượu cả hoặc cơn say chẳng lẽ kéo dài đến tận 2 năm?” – nhà báo Đỗ Doãn Hoàng đặt câu hỏi.
Cũng theo Đỗ Doãn Hoàng, anh đã đến những trang trại khuếch trương thanh thế rằng trong vài ngày có thể xuất đi hàng tấn rùa được nuôi sinh sản ngay tại chỗ, “nhưng thực tế thì chỉ có một cái hố cát bẩn thỉu có hai con rùa sống, hai con rùa đã chết khô, được nuôi chung với cả lợn, gà. Thử hỏi cá thể rùa nào có thể sinh sản trong môi trường như thế và sinh sản như thế nào mà nhanh đến nỗi vài ngày là có cả tấn rùa, nếu không buôn bán ĐVHD?”.
Đã đến lúc nghiêm cấm tuyệt đối
Đó là quan điểm của bà Bùi Thị Hà, Phó Giám đốc ENV vì theo bà Hà, tình trạng buôn bán ĐVHD trái phép đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của Việt Nam. Dù rằng hiện nay đang có nhiều ý kiến ủng hộ quan điểm hợp pháp hóa gây nuôi thương mại và buôn bán ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm vì cho rằng gây nuôi thương mại vừa là một giải pháp phát triển kinh tế vừa có giá trị bảo tồn.
Tuy nhiên, với thực tế như đã nói trên thì sự quan ngại về việc hợp pháp hóa hoạt động gây nuôi thương mại và buôn bán các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm là con đường dẫn đến sự tuyệt chủng ngày càng rõ nét, bởi những chủ cơ sở gây nuôi luôn đưa lý do kinh tế lên trên tầm quan trọng của việc bảo vệ các loài ĐVHD.
“Chúng tôi cho rằng gây nuôi thương mại và buôn bán ĐVHD nguy cấp, quý hiếm sẽ gia tăng nhanh chóng nguy cơ tuyệt chủng của những loài này. Việc đem tương lai của nhiều loài ĐVHD nguy cấp bậc nhất trên thế giới để đánh đổi lấy lợi nhuận của một nhóm người là vô cùng mạo hiểm”, bà Bùi Thị Hà, Phó Giám đốc ENV nhấn mạnh.
Nhà làm luật và nhà khoa học đang giống như “hai đường thẳng song song”?
Khi đọc bài báo nói trên, hẳn nhiều người sẽ đặt câu hỏi rằng pháp luật ở đâu khi tình trạng mua bán ĐVHD đang diễn ra tràn lan như vậy? Xin trả lời rằng tại hệ thống pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này tương đối đầy đủ như:
Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Luật Thủy Sản, và một loạt các Nghị định 160/2013 về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; Nghị định 32 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm...
Nhưng hiện nay các quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ các loài ĐVHD nguy cấp, quý hiếm được nhận định là đang chồng chéo, mâu thuẫn và không rõ ràng. Một số văn bản mở rộng cửa cho các hoạt động gây nuôi thương mại và buôn bán các loài ĐVHD nguy cấp quý hiếm.
Một số chính sách, văn bản pháp luật được triển khai mà không cân nhắc kỹ đến những hậu quả lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của đất nước do hoạt động gây nuôi thương mại và buôn bán các loài nguy cấp, quý, hiếm gây nên…, mà câu chuyện Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh cấp phép cho một số hộ dân tỉnh này gây nuôi thương mại tê tê- loài động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo Nghị định 160/2013/NĐ-CP là một bằng chứng.
Mấu chốt vấn đề nằm ở chỗ các cơ quan khoa học CITES chưa hề xác nhận việc tê tê có khả năng sinh sản liên tiếp qua nhiều thế hệ trong môi trường nuôi nhốt hay nuôi sinh trưởng tê tê không ảnh hưởng tới việc bảo tồn loài này trong tự nhiên. Và theo Nghị định 82/2006/NĐ-CP, xác nhận bằng văn bản này của cơ quan khoa học CITES chính là một trong những điều kiện tiên quyết để đăng ký gây nuôi các loài động vật hoang dã (ĐVHD) nguy cấp, quý, hiếm như tê tê.
Vậy nhưng, Chi cục Kiểm lâm Tây Ninh lại thẳng thừng tuyên bố với ENV rằng: “Về trình tự thủ tục cấp giấy, không quy định phải xin ý kiến bằng văn bản đối với cơ quan khoa học CITES Việt Nam. CITES Việt Nam phải có trách nhiệm nghiên cứu và xác nhận bằng văn bản các loài ĐVHD có khả năng nuôi sinh sản, sinh trưởng trong môi trường tự nhiên có kiểm soát”.
Trả lời câu hỏi của phóng viên báo Pháp luật Việt Nam rằng dưới góc độ khoa học có loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm nào được phép gây nuôi và danh sách đó có nằm trong quy định pháp luật hay không, PGS – TS Lê Xuân Cảnh – Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật cho biết, các nhà khoa học đã đưa ra một danh sách có khoảng 40 loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm nào được phép gây nuôi nhưng danh sách này chưa được luật hóa vì theo ông Cảnh “từ nghiên cứu khoa học đến chính sách pháp luật là cả một khoảng cách”.
Cũng theo ông Cảnh các nhà khoa học luôn sẵn sàng phối hợp với nhà làm luật để tạo ra được những quy phạm pháp luật có lợi nhất cho sự nghiệp bảo tồn ĐVHD ở Việt Nam, bởi Việt Nam đã là thành viên lâu năm của Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (Công ước CITES). “Tuy nhiên, vẫn có sự phối hợp chưa ăn ý giữa nhà khoa học và nhà làm luật nên mới có thực tế khó kiểm soát như hiện nay” – ông Cảnh nhấn mạnh.
Ở góc độ trực tiếp va chạm với thực tế gây nuôi thương mại ĐVHD, ông Khổng Trung – Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị cho rằng cái khó hiện nay là các cán bộ kiểm lâm thường không có cơ sở pháp lý để phân biệt giữa loài gây nuôi và loài có nguồn gốc hoang dã. Vì vậy, kiểm soát trại nuôi đang gặp khó khăn và đây cũng là kẽ hở để các đối tượng lợi dụng để nhập lậu ĐVHD vào các trang trại.
Ví dụ, khi tiến hành kiểm tra trại nuôi rắn, các cán bộ kiểm lâm hoàn toàn có thể nhận diện cá thể được nuôi nhốt lâu ngày (màu da sẫm hơn, chậm chạp) và cá thể mới bị săn bắt từ tự nhiên (bản tính hung hăng, di chuyển linh hoạt và nhanh nhẹn). Tuy nhiên, các cán bộ kiểm lâm hoàn toàn không có căn cứ pháp lý để đối chất với chủ cơ sở về nguồn gốc của các cá thể ĐVHD có dấu hiệu săn bắt từ tự nhiên nói trên.
“Trong khi chưa quản lý tốt cơ sở gây nuôi cũng như việc nỗ lực bảo vệ rừng chưa đảm bảo thì chưa nên cho phép gây nuôi loài ĐVHD nguy cấp, quí, hiếm vì hoạt động này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến quần thể tự nhiên của các loài này” – ông Trung đề xuất.