Tỉnh Quảng Ninh dành khoảng 4.000 tỷ đồng để thực hiện Chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, gắn với thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn giai đoạn 2021-2025, tổng ngân sách tỉnh bố trí trực tiếp cho Chương trình và Nghị quyết số 06-NQ/TU giai đoạn 2021-2023 là 2.902,751 tỷ đồng.
Trong số này, có 165,048 tỷ đồng vốn sự nghiệp dành cho Chương trình giảm nghèo và hỗ trợ phát triển sản xuất, 300 tỷ đồng vốn ủy thác qua Ngân hàng chính sách xã hội (CSXH) tỉnh thực hiện cho vay đối với 4.090 hộ dân để tạo việc làm tại các xã, thôn mới ra khỏi diện đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã đảo trên địa bàn tỉnh.
Cùng với nguồn trên, tỉnh, các địa phương còn vận động các ngân hàng cho vay tại các xã để phát triển sản xuất, tạo việc làm cho người dân ở những vùng này. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Quảng Ninh đã hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách tín dụng tại địa bàn 65 xã vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo. Đến ngày 30/7/2023, dư nợ cho vay tại các xã vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo là 4.284,9 tỷ đồng, với 32.446 khách hàng còn dư nợ, đạt mức dư nợ bình quân 132 triệu đồng/khách hàng.
Từ năm 2021 đến nay, ngân hàng CSXH tỉnh đã triển khai cho 18.502 lượt khách hàng vay số tiền 1.203,1 tỷ đồng. Tính đến hết tháng 6/2023, tổng dư nợ là 1.662,1 tỷ đồng, với 36.170 khách hàng vay còn dư nợ; bình quân dư nợ 25,6 tỷ đồng/xã. Hội Nông dân tỉnh cũng tích cực vào cuộc, sử dụng vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân giải ngân 78,451 tỷ đồng cho 154 dự án mới, với 1.146 hộ vay; tổng dư nợ cho vay đạt 78,185 tỷ đồng, với 1.238 hộ vay qua 191 dự án.
|
Tổ tiết kiệm vay vốn xã Bằng Cả (TP Hạ Long) bình xét hộ vay vốn. |
Thực hiện chính sách đặc thù khuyến khích phát triển lâm nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh theo Nghị quỵết số 337/NQ-HĐND ngày 24/3/2021 của HĐND tỉnh, sau hơn 2 năm triển khai, đến nay đã có 896 chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân tham gia chính sách phát triển rừng trồng sản xuất cây gỗ lớn, cây bản địa với diện tích 1.768,53ha. Tổng kinh phí ngân sách tỉnh hỗ trợ cho 896 hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn TP Hạ Long và huyện Ba Chẽ để tham gia chính sách trồng rừng cây gỗ lớn, cây bản địa đạt 38,47 tỷ đồng.
Cùng với đó, tỉnh, các địa phương còn vận động bà con vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa tập trung, trên cơ sở phát huy hiệu quả lợi thế so sánh của địa phương với đa dạng hàng hóa các sản phẩm của tỉnh, xây dựng và phát triển các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh tạo thuận lợi cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đưa công nghệ mới vào sản xuất, đẩy mạnh cơ giới hóa, thúc đẩy liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.
|
Người dân tộc thiểu số huyện Tiên Yên, phát triển mô hình nuôi gà theo quy trình VietGAP. |
Đến nay vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trên địa bàn tỉnh có 76 sản phẩm tham gia chương trình OCOP của tỉnh, với 62 sản phẩm đạt 3 sao và 14 sản phẩm đạt 4 sao. Sở KH&CN tiếp tục triển khai thực hiện 25 nhiệm vụ KHCN liên quan đến sản xuất, chế biến, tiêu thụ, nâng cao năng suất lao động, giá trị gia tăng của các sản phẩm ở vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trên địa bàn, thực hiện thí điểm dự án “Trung tâm kết nối giao thương thương mại, du lịch và quảng bá sản vật vùng đồng bào DTTS và miền núi”.
Bên cạnh huy động nguồn vốn hỗ trợ bà con vùng đồng bào DTTS, miền núi phát triển kinh tế gia đình, tỉnh còn huy động nguồn lực xã hội hóa để hỗ trợ bà con khó khăn; lồng ghép các chương trình để tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng vùng đồng bào DTTS trên địa bàn, từ đó tạo hiệu quả phát triển bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bà con nhân dân.
Quảng Ninh hiện có 56 xã, thị trấn vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Việc nâng cao đời sống của người dân, thu hẹp khoảng cách các vùng, góp phần xây dựng nông thôn mới luôn là nhiệm vụ được tỉnh đặc biệt quan tâm. Chính vì thế, ngày 17/5/2021, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 06 - NQ/TU về phát triển bền vững KT-XH gắn với bảo đảm vững chắc QP-AN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Nghị quyết đặt ra mục tiêu, phấn đấu đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh tăng tối thiểu 2 lần so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo giảm trung bình 3%/năm; không còn nhà ở tạm, nhà dột nát; cơ bản giải quyết dứt điểm nhu cầu cấp thiết về nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo, khó khăn.
Đến hết năm 2022 không còn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn theo tiêu chí mới; trên 98% đồng bào DTTS có bảo hiểm y tế; 100% hộ đồng bào DTTS được xem truyền hình, nghe đài phát thanh Quốc gia và tỉnh Quảng Ninh; trên 95% người dân được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; phấn đấu hết năm 2021, xóa "vùng lõm" sóng điện thoại di động ở các khu vực có dân cư sinh sống thuộc địa bàn miền núi, biên giới, hải đảo. Đến hết năm 2022, có 100% số xã thuộc phạm vi Đề án đạt chuẩn nông thôn mới. Đến năm 2025, có trên 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và trên 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 100% đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới…
Định hướng đến năm 2030, các xã vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh có hệ thống kết cấu kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, liên thông, tổng thể, kết nối thuận lợi với các vùng phát triển của tỉnh; 100% số xã vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh tối thiểu bằng 1/2 thu nhập bình quân chung của tỉnh; duy trì giảm tỷ lệ hộ nghèo trung bình 1,5%/năm.