Quyền phản tố của bị đơn

(PLO) - Khi bị khởi kiện trong một vụ án, bị đơn có quyền đưa ra ý kiến hoặc yêu cầu phản tố. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều bị đơn đã bỏ qua quyền phản tố của mình do không biết mình có quyền này hoặc không hiểu rõ quyền của mình. 
Quyền phản tố của bị đơn

“Phản tố” là gì?

“Phản tố” được hiểu là một quyền của người “bị tố” - người bị kiện hay chính là bị đơn – nhằm đưa ra những yêu cầu  “phản” lại với những “tố” - yêu cầu của người khởi kiện. “Phản” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng có tính đối lập với yêu cầu khởi kiện nhưng sự đối lập không chỉ bao gồm việc loại trừ trực tiếp yêu cầu của nguyên đơn mà có thể theo hướng bù trừ nghĩa vụ được nêu trong yêu cầu của nguyên đơn. 

Thoạt nghe, thì thấy rằng yêu cầu phản tố này có sự tương đồng với việc đưa ra ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện do các yêu cầu này đều liên hệ mật thiết với yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn, nhưng hai yêu cầu này hoàn toàn khác biệt về hệ quả pháp lý và mỗi bên trong vụ án đều phải hiểu rõ các quyền này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. 

Về việc đưa ra ý kiến bằng văn bản của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì đây là quyền, vì vậy bị đơn có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Tuy nhiên, pháp luật cũng đặt ra giới hạn việc thực hiện quyền này được tiến hành trong vòng 15 ngày kể từ khi bị đơn nhận được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, trường hợp cần gia hạn thì được phép gia hạn không quá 15 ngày. Thực tế, việc đưa ra ý kiến có thể được áp dụng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và bị đơn không có nghĩa vụ chứng minh cho những ý kiến của mình. 

Về việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Việc đưa ra yêu cầu phản tố phải được thực hiện theo thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, về bản chất đưa ra yêu cầu phản tố cũng giống như việc khởi kiện một vụ án vì vậy vai trò của bị đơn lúc này cũng đã khác, không chỉ đơn thuần là bị đơn mà kiêm luôn quyền và nghĩa vụ của một nguyên đơn.

Xác định nội dung của một yêu cầu phản tố chính đáng

Theo các luật sư Công ty Luật Dân Quyền, để một yêu cầu phản tố chính đáng và được tòa án chấp nhận phải đáp ứng các yêu cầu về nội dung và hình thức.

Thứ nhất, về mặt nội dung, yêu cầu phản tố chỉ được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: “a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn”.

Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể hơn về điều khoản này, nhưng chúng ta có thể tham khảo quy định tại Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP. 

Trước hết yêu cầu phản tố phải là yêu cầu không cùng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ví dụ: nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu về việc trả tiền theo hợp đồng mua bán, bị đơn đưa ra ý kiến là chỉ chi trả một phần hoặc không chấp nhận trả tiền phát sinh từ hợp đồng mua bán đó cho nguyên đơn thì đó không phải là yêu cầu phản tố mà chỉ được coi là ý kiến của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bởi yêu cầu của bị đơn cũng về nghĩa vụ trả tiền phát sinh từ một hợp đồng như của nguyên đơn. Nhưng nếu như yêu cầu của bị đơn là yêu cầu nguyên đơn trả tiền cho mình phát sinh từ hợp đồng mua bán khác thì có thể được coi là yêu cầu phản tố vì tuy là cùng một nghĩa vụ trả tiền nhưng nó lại phát sinh từ hợp đồng mua bán khác – có nghĩa là tính chất đã khác với yêu cầu của nguyên đơn – việc xác định cụ thể đó có phải là yêu cầu phản tố không còn phải căn cứ vào các yếu tố được phân tích dưới đây. 

Tiếp theo, để xác định như thế nào là yêu cầu phản tố, thì yêu cầu đó phải thuộc một trong ba trường hợp luật định. Thứ nhất, với trường hợp yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với nguyên đơn. Trong Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP đã lấy ví dụ sau: “Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê nhà còn nợ của năm 2005 là năm triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn là ba triệu đồng. Trường hợp này, yêu cầu của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn A”. Như vậy nghĩa vụ bù trừ ở đây là nghĩa vụ trả tiền cụ thể số tiền bên B nợ tiền thuê nhà của bên A có thể được bù trừ với số tiền bên B đã bỏ ra sửa chữa căn nhà. 

Thứ hai, với trường hợp yêu cầu phản tố dẫn đến việc loại trừ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP đã lấy ví dụ sau: “Ví dụ: A có chiếc xe ô tô thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói với con (B là con của A) là cho C thuê mỗi tháng năm triệu đồng. Sau đó A chết, B khởi kiện yêu cầu C phải thanh toán tiền thuê xe trong một năm qua là sáu mươi triệu đồng. C có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu xe ô tô và có tranh chấp. Nếu Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của C, thì dẫn đến không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ô tô.” Trường hợp này yêu cầu phản tố của C đã loại trừ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn B. 

Cuối cùng, với trường hợp thứ ba yêu cầu phản tố được đưa ra nếu được giải quyết trong cùng một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng hơn. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP đã lấy ví dụ sau: “Chị M khởi kiện yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con P một tháng ba trăm ngàn đồng. Anh N có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án xác định P không phải là con của anh”. Trường hợp này, yêu cầu của anh N không bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của chị M cũng không làm triệt tiêu yêu cầu của chị M. Yêu cầu của chị M vẫn chính đáng nếu như P là con anh N, tuy nhiên việc giải quyết yêu cầu này sẽ dẫn tới kết luận cuối cùng về việc giải quyết yêu cầu của chị M. 

Trên thực tế, các yêu cầu của nguyên đơn có thể phức tạp hơn, và việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn cũng có thể trên nhiều phương diện, có thể thuộc đồng thời 3 trường hợp trên hoặc chỉ thuộc một trường hợp,… và việc chấp nhận yêu cầu phản tố một phần dựa trên quan điểm của thẩm phán giải quyết vụ việc. 

Thực hiện quyền phản tố phải tuân thủ trình tự nào?

Việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn phải tuân thủ hình thức như khởi kiện của một vụ việc. Có nghĩa là bị đơn phải soạn đơn phản tố bằng văn bản và gửi tới Tòa án, sau đó bị đơn sẽ phải thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí như nguyên đơn. Thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ được tính lại kể từ ngày bị đơn nộp tạm ứng án phí hoặc trong trường hợp bị đơn được miễn án phí thì tính từ ngày Tòa án nhận được đơn phản tố. 

Bên cạnh những yếu tố về trình tự thủ tục thì hệ quả pháp lý cũng thay đổi cơ bản nếu như bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố. Cụ thể, thay vì trước kia bị đơn không có nghĩa vụ chứng minh cho ý kiến của mình thì bây giờ bị đơn phải chủ động trong việc chứng minh yêu cầu phản tố của mình. Khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện, nếu bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố thì thẩm phán sẽ đình chỉ giải quyết vụ việc, tuy nhiên nếu như bị đơn đã đưa ra yêu cầu phản tố thì vai trò của các bên sẽ thay đổi, bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn và ngược lại nguyên đơn sẽ trở thành bị đơn, vụ án sẽ tiếp tục được giải quyết.

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn có sự tác động to lớn tới quá trình giải quyết vụ việc về mặt nội dung và hình thức. Thực tế, bị đơn thường lỡ mất các quyền này do không biết, cụ thể về mặt nội dung với những người dân bình thường thường không biết cách trình bày yêu cầu của mình rõ ràng mà chỉ lồng ghép các với các ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về mặt thủ tục, người dân không biết trình tự thủ tục nếu đưa ra yêu cầu phản tố mà các cán bộ Tòa án không hướng dẫn cụ thể. Như vậy, pháp luật cần quy định rõ ràng, dễ hiểu hơn về quyền này cũng như trách nhiệm của các cán bộ tòa án trong việc phổ biến quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như việc hướng dẫn các bên trong việc thực hiện quyền của mình để pháp luật đi vào đời sống và đảm bảo được chức năng bảo vệ công lý của mình. 

Đọc thêm