Tắc đường kiện tụng
Tháng 04/1992, ông Nguyễn Đức Thống (SN 1946 ngụ Bạch Mã, phường 15, quận 10, TP HCM) và vợ là bà Dương Trung Phước nhận chuyển nhượng từ ông Hồ Văn Hải khu đất tại xã Tân Quy Tây, huyện Nhà Bè (nay là phường Tân Hưng, quận 7) được UBND huyện Nhà Bè cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là GCN) số 387QSDĐ/78 ngày 30/12/1995 với diện tích 12.271m2. Khu đất này ông Thống đã canh tác ổn định và cải tạo giữ gìn chống bị sạt lở, hoàn toàn không xảy ra tranh chấp.
Đột ngột năm 2008 thì ông Thống bất ngờ được mời giải quyết về khu đất do có ông Huỳnh Văn Cò nộp đơn tranh chấp. Sau nhiều lần hòa giải không thành, ông Cò đã khởi kiện UBND quận 7 ra tòa, yêu cầu hủy một phần GCN liên quan đến 1.635m2 của ông Thống.
Tại đơn khởi kiện, ông Cò cho rằng: Trong 12.271m2 đất ông Thống đang sử dụng có 1.635m2 đất có nguồn gốc do cha ông Cò là cụ Huỳnh Văn Tám khai hoang, trồng lúa. Năm 1975 cụ Tám giao lại cho ông Cò canh tác. Năm 1976 ông Cò có kê khai diện tích canh tác. Năm 1979 ông Cò đăng ký vào tập đoàn sản xuất nông nghiệp.
Khi tập đoàn giải thể, ông Cò cho rằng UBND xã đã họp và xác định khu đất vẫn thuộc quyền sở hữu của ông, trên đất có những ngôi mộ của gia tộc ông. Đến năm 2008 ông Cò nhờ người đo vẽ để làm thủ tục xin cấp quyền sử dụng đất thì người nhà ông Thống ngăn cản dẫn đến phát sinh tranh chấp, từ đó ông khiếu nại đến UBND quận 7.
Lấy lý do UBND quận 7 để quá thời hạn giải quyết khiếu nại, ông Cò khởi kiện hành chính ra TAND quận 7 yêu cầu hủy một phần GCN đã cấp cho ông Thống.
Trong phiên xử TAND quận 7 nghiên cứu toàn diện các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ nhận định: Khu đất tranh chấp có nguồn gốc do gia đình ông Cò khai hoang. Sau năm 1975 khu đất này đã đưa vào Tập đoàn sản xuất. Căn cứ theo các quy định của pháp luật về đất đai thì “chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó không có quyền đòi lại quyền sử dụng đất đã được giao cho người khác sử dụng và họ đã được cấp GCN theo Luật Đất đai năm 1987 và năm 1993, trừ trường hợp có căn cứ chứng minh người đang sử dụng đất có hành vi gian dối, lừa đảo để được giao QSDĐ”.
Phía ông Cò có nộp đơn kiện bổ sung cho rằng ông Hải đã mạo danh người thuê đất của cha ông, lấy đất để bán cho ông Thống nhưng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày này.
Về chứng cứ: việc ông Cò trình bày trong đơn như có kê khai sản xuất năm 1976; UBND xã đã họp trả lại đất cho ông từ năm 1993, có nộp thuế sử dụng đất… đều không đưa ra được chứng cứ phù hợp quy định pháp luật. Về những ngôi mộ, ông Cò không đưa ra được các tài liệu chứng minh mình có quan hệ gia tộc, họ hàng.
Căn cứ tài liệu Chỉ thị 299/TTg thì phần đất được đăng ký chủ sử dụng là Tập đoàn 9, theo tài liệu Chỉ thị 02/CT-UB thì đăng ký sử dụng là ông Nguyễn Đức Thống.
Các giấy tờ sang nhượng từ ông Hồ Văn Hải sang ông Nguyễn Đức Thống có xác nhận của UBND xã Tân Quy Tây, phù hợp với quy định tại Điều 31 Luật Đất đai 1993. Như vậy, ông Thống đủ các điều kiện quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai 2003 để được cấp GCN quyền sử dụng đất.
Ông Thống sử dụng đất liên tục từ năm 1992 và sau khi cấp GCN nhưng ông Cò không có bất kì khiếu nại hay tranh chấp gì, đến năm 2008 mới thực hiện việc khiếu nại đến UBND quận 7.
Từ nhận định trên, HĐXX xác định: UBND huyện Nhà Bè cấp GCN cho ông Thống là đúng thẩm quyền nên bác đơn yêu cầu khởi kiện của ông Cò. Ông Cò nộp đơn kháng cáo xin phúc thẩm.
Tuy nhiên, đến ngày 24/3/2016, ông Cò rút đơn kháng cáo, đồng thời rút luôn cả đơn khởi kiện. Ngày 25/3/2016, HĐXX phúc thẩm TAND TP HCM đã ra phán quyết hủy bản án sơ thẩm của TAND quận 7, đồng thời đình chỉ giải quyết vụ án.
Sau đó, ông Cò quay sang tiếp tục khiếu nại UBND quận 7. Ngày 27/5/2016, UBND quận 7 có Văn bản số 05 về việc trả lời khiếu nại của ông Cò, nêu rõ: Trước đây, ông Cò có đơn khởi kiện vào ngày 24/9/2012 và đơn kiện bổ sung ngày 13/2/2014 yêu cầu TAND quận 7 hủy GCN cấp cho ông Thống. Không đồng ý bản án sơ thẩm, ông Cò đã có đơn kháng cáo. Tuy nhiên sau đó rút toàn bộ cả đơn kháng cáo và đơn khởi kiện. Ông Cò đã biết được hành vi hành chính của UBND huyện Nhà Bè (cũ) cấp GCN cho ông Thống và đã có đơn khởi kiện. Như vậy ông Cò đã chọn hướng giải quyết tại TAND quận 7 và TAND TP HCM.
UBND quận 7 kết luận: “Cho đến thời điểm hiện nay, thời hiệu khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng”, căn cứ Luật Khiếu nại năm 2011, trường hợp của ông Cò không đủ điều kiện để thụ lý, giải quyết.
Ngang nhiên… làm càn !
Kiện thua và rút đơn, quay về khiếu nại thì “tắc” đường. Ông Cò chuyển hướng “xông” vào đất ông Thống tiến hành xây dựng nhà trái phép. Hành vi của ông Cò bị ông Thống tố cáo gay gắt.
Tại Văn bản số 192/UBND-QLĐT ngày 23/5/2016, UBND quận 7 xác định: Có hai công trình phát sinh trên khu đất bao gồm căn nhà cột sắt, mái tôn 31,32m2 (3,6mx8,7m) và một căn nhà cột sắt, mái lá 66,3m2 (3,9mx17m). UBND quận 7 đã chỉ đạo UBND phường Tân Hưng phối hợp với các cơ quan chức chuyên môn kiểm tra xử lý và sớm có văn bản phản hồi kết quả cho ông Thống.
Trong khi chờ giải quyết từ UBND quận 7 thì ông Thống phát hiện ông Cò đã mang 12.000m2 thuộc phần đất mà ông được cấp quyền sử dụng bán cho ông Lê Việt Thanh (ngụ phường 17, quận Bình Thạnh, TP HCM). Hai văn bản thỏa thuận và xác lập việc chuyển nhượng quyền SDĐ được lập ngày 14 và ngày 18/5/2016 với giá 6 tỷ đồng. Điều nghiêm trọng là: ngoài phần đất đang có tranh chấp, ông Cò bán luôn phần đất ông Thống đang quản lý, vốn không liên quan gì đến ông Cò!
Sau khi ông Thống tố cáo, ngày 25/7/2016, ông Cò cùng ông Thanh lập “văn bản thỏa thuận”, hủy bỏ hai hai văn bản đã lập trước đó, ông Cò có nghĩa vụ trả lại cho ông Thanh 6 tỷ đồng. Ông Thống cho rằng dù hợp đồng hủy bỏ, hai bên đã hoàn trả cho nhau những gì cho và nhận, nhưng hành vi mua bán này có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, cần phải xử lý nghiêm.
Ông Thống cho biết: “Mặc dù đơn gửi đi, nhưng khu đất của tôi đã bị ông Cò và người lạ vào chiếm giữ, xây dựng hàng rào tôn chia khu đất ra làm đôi, họ ngang nhiên coi thường pháp luật, xâm phạm quyền lợi của tôi”.
Tới ngày 5/9/2016, UBND quận 7 có văn bản chỉ đạo các cơ quan chức năng (Công an quận 7 cùng các phòng Tài nguyên và Môi trường, Tư pháp, Thanh tra quận 7…) phối hợp với UBND phường Tân Hưng kiểm tra xử lý hành vi vi phạm trật tự xây dựng, an ninh trật tư tại khu đất. Tuy nhiên, đến nay các công trình xây dựng trái phép nói trên chưa được xử lý.
Thiết nghĩ, Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông Thống đang được Nhà nước bảo hộ theo quy định. Việc ông Cò và một số người tự ý xông vào chiếm đất ông Thống và ngang nhiên xây dựng trái phép là vụ việc vi phạm pháp luật hết sức nghiêm trọng. UBND quận 7 cần khẩn trương làm rõ, xử lý dứt điểm nhằm tránh tạo ra xung đột, phức tạp, gây hậu quả khó lường…