Phán quyết nhiều vi phạm
Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2016/DS-ST ngày 29/4/2016 của TAND huyện Hạ Hòa, xử: Không chấp nhận yêu cầu của bà Chuôm yêu cầu anh Phạm Văn Thọ, chị Đinh Thị Chinh trả lại diện tích đất là 152,5m2; 01 ngôi nhà cấp 4, 52m2; 01 trái vẩy, 1 bếp, 1 bể nước, 1 chuồng lợn và công trình vệ sinh, diện tích 100,5m2 trên thửa đất số 33, tờ bản đồ số 22 tại khu 8 thị trấn Hạ Hòa, huyện Hạ Hòa; giá trị hơn 1 tỷ 480 triệu đồng…
Tuy nhiên, ngày 26/5/2016, VKSND tỉnh Phú Thọ đã có Quyết định số 200/QĐ-KNPT kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm do cấp sơ thẩm có những vi phạm về xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng và thu thập chứng cứ, như: Trong đơn khởi kiện ngày 21/9/2015, bà Chuôm đề nghị tòa án buộc ông Thọ, bà Chinh trả lại quyền sử dụng đất cho gia đình bà.
Sau khi khởi kiện, tại bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 17/11/2015, ông Nguyễn Xuân Việt, người đại diện ủy quyền cho bà Chuôm có đề nghị Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa bà Chuôm cho anh Thắng, chị Hà do bị lừa dối; hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa anh Thắng, chị Hà cho ông Thọ, bà Chinh và hủy Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên ông Thọ, bà Chinh để trả lại quyền sử dụng đất cho bà.
Như vậy, trong vụ án phát sinh hai mối quan hệ tranh chấp: Một là, tranh chấp hợp đồng cho tặng QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà. Trong tranh chấp này xác định anh Thắng, chị Hà là bị đơn. Hai là, tranh chấp QSDĐ giữa bà Chuôm và ông Thọ, bà Chinh nhưng trong tranh chấp hợp đồng chuyển QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà, quá trình giải quyết cấp sơ thẩm chỉ xác định anh Thắng, chị Hà là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không đưa 2 người là bị đơn trong vụ kiện.
Hơn nữa trong phần xét thấy tòa án cấp sơ thẩm khẳng định việc chuyển QSDĐ này là hợp pháp, nhưng phần quyết định không áp dụng điều luật cũng như quyết định tính hợp pháp của hợp đồng. Như vậy, cấp sơ thẩm còn giải quyết thiếu yêu cầu của đương sự.
Vi phạm trong việc thu thập chứng cứ
Kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ cũng xác định, TAND huyện Hạ Hòa đã có những vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, như: Thứ nhất, tại biên bản hòa giải tranh chấp QSDĐ giữa hộ bà Chuôm và anh Thắng ngày 28/9/2015 là bản phô tô, nhưng chứng thực của UBND thị trấn Hạ Hòa ngày 18/9/2015, như vậy việc chứng thực được thực hiện trước khi tiến hành hòa giải 10 ngày. Do đó, biên bản này không có tính hợp pháp…
Giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư ngày 20/8/2013 và đơn đề nghị chuyển QSDĐ và nhà cùng công trình phụ ngày 5/10/2013 giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà đều không phải bản chính mà là bản phô tô, các văn bản này cũng không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền…Việc thu thập chứng cứ như vậy chưa đúng với quy định tại khoản 1 Điều 83 BLTTDS.
Thứ hai, về hình thức và nội dung Giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư ngày 20/8/2013 và hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà được UBND thị trấn Hạ Hòa chứng thực ngày 25/10/2013: đối với Giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư ngày 20/8/2013 bản phô tô do ông Nguyễn Đức Ninh - Chủ tịch UBND thị trấn Hạ Hòa ký xác nhận.
Tại văn bản này ở mặt thứ 2 chỉ có chữ ký của các bên và dòng chữ: “Xác nhận của UBND thị trấn Hạ Hòa, thay mặt UBND - ông Ninh ký và đóng dấu” ngoài ra không có ngày, tháng, năm xác nhận, không thêm lời chứng thực nào khác. Như vậy việc chứng thực này không tuân thủ theo quy định của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006.
TAND huyện Hạ Hòa đã nhận định từ giấy chứng nhận này và đơn đề nghị chuyển QSDĐ và nhà cùng công trình phụ ngày 5/10/2013, UBND thị trấn Hạ Hòa tiến hành làm thủ tục, hồ sơ chuyển QSDĐ cho anh Thắng, chị Hà là hợp pháp.
Xác định đấy là tài liệu quan trọng để khẳng định bà Chuôm có thể hiện ý chí của mình bằng việc ký vào văn bản này hay không, thì tài liệu này cần phải được giám định. Trong các tài liệu Cơ quan CSĐT Công an huyện Hạ Hòa đưa đi giám định thì không có văn bản này. Như vậy, văn bản này chưa đủ cơ sở khẳng định thể hiện ý chí của bà Chuôm.
Hợp đồng chuyển QSDĐ “có vấn đề”
Đối với hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà được UBND thị trấn chứng thực ngày 25/10/2013 (đã được giám định) theo lời trình bày của anh Thắng, chị Hà và nhận định của TAND huyện Hạ Hòa thì bà Chuôm cho, tặng thửa đất này, nhưng UBND thị trấn Hạ Hòa lại sử dụng mẫu hợp đồng chuyển QSDĐ. Về nội dung: hợp đồng không ghi địa điểm, ngày, tháng, năm lập hợp đồng.
Trong nội dung cụ thể phần ghi số CMND của 2 bên đều không có; tại điều 1 chỉ ghi chuyển nhượng phần diện tích đất mà không có tài sản trên đất (trong khi đó văn bản cho tặng có cả đất và tài sản trên đất); tại điều 2 phần giá chuyển nhượng ghi bà cho cháu (anh Thắng là cháu nội của bà Chuôm - PV), nhưng phần phương thức thanh toán là bằng tiền mặt; tại phần lời chứng của Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND thị trấn Hạ Hòa, phần chứng số (13) đã có hướng dẫn ghi các lời chứng cụ thể, nhưng ông Trình – Phó Chủ tịch không ghi gì vào phần này; phần cuối hợp đồng ghi “Hợp đồng này được lập thành 03 bản chính (mối bản gồm 03 tờ, 04 trang)…nhưng nếu tính cả phần lời chứng thì hợp đồng này có 03 tờ và là 05 trang…
Mặt khác, tại cơ quan Công an huyện Hạ Hòa, anh Thắng (người được tặng cho), anh Kiên (cán bộ địa chính thị trấn Hạ Hòa) người trực tiếp làm hồ sơ, ông Trình (Phó Chủ tịch UBND thị trấn Hạ Hòa) người chứng thực đều thừa nhận bà Chuôm không có mặt tại UBND thị trấn Hạ Hòa để làm thủ tục chuyển QSDĐ. Theo đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hạ Hòa đã kết luận và đề nghị: “…việc UBND thị trấn Hạ Hòa lập hồ sơ chuyển nhượng mảnh đất từ bà Chuôm cho anh Thắng, sau đó được UBND huyện Hạ Hòa cấp Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên Hoàng Trọng Thắng là chưa thực hiện đúng theo quy định của Luật Đất đai…đề nghị UBND thị trấn Hạ Hòa có biện pháp xử lý đối với ông Trần Huy Trình và Nguyễn Trung Kiên theo đúng quy định”.
Như vậy, việc chứng thực đối với Giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư ngày 20/8/2013 và việc xác lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà được UBND thị trấn Hạ Hòa chứng thực ngày 25/10/2013 là chưa tuân thủ theo quy định tại mục 5 phần I của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006, hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất; Điều 11, Điều 43, Điều 56 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực (được thay thế bằng Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015).
Trước những sai phạm của TAND huyện Hạ Hòa, VKSND tỉnh Phú Thọ kháng nghị đề nghị TAND tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2016/DS-ST của TAND huyện Hạ Hòa, giao cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
Được biết, ngày 26/7/2016, TAND tỉnh Phú Thọ đưa vụ án ra xét xử, nhưng sau đó đã tạm hoãn. PLVN tiếp tục theo dõi và phản ánh vụ án trên.