Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Nhiều cách hiểu khác nhau và việc áp dụng quy định của pháp luật không thống nhất liên quan đến các tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, nhà đầu tư và ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư, kinh doanh.
Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng. (Ảnh: Gia Hải)
Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng. (Ảnh: Gia Hải)

Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng cho biết, thông thường, tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại đều xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng của một hoặc cả hai bên ký kết với lỗi cố ý hoặc vô ý nên đã làm trái với các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, việc xác định trường hợp nào áp dụng pháp luật chuyên ngành, trường hợp nào áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về thời hiệu khởi kiện và các loại chế tài do vi phạm hợp đồng.

Tại Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.

Tại khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng quy định: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”.

Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, một trong những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, điều luật này không liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhưng phổ biến hiện nay là các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ, đại diện, đại lý, gia công, đấu giá, cho thuê hàng hóa, giám định thương mại, nhượng quyền thương mại theo quy định của Luật Thương mại; tranh chấp về hợp đồng thi công xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng; tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm; tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bất động sản theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản...

“Theo các quy định nêu trên có thể hiểu: hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ, đại diện, đại lý, gia công, đấu giá, cho thuê hàng hóa, giám định thương mại, nhượng quyền thương mại... là các hoạt động thương mại được quy định cụ thể trong luật chuyên ngành là Luật Thương mại; còn hợp đồng thi công xây dựng, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng kinh doanh bất động sản... là hoạt động kinh doanh, được quy định tại các luật chuyên ngành là Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn thi hành” - Luật sư Hiếu cho biết.

Nhận định về việc áp dụng pháp luật, Giám đốc Công ty Luật Hiếu Hùng cho hay, theo quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.

Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.

Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.

Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.

Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong nước không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp. Tại Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều 4 Bộ luật Dân sự thì quy định của Bộ luật Dân sự được áp dụng.

Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật Dân sự và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

Như vậy, việc áp dụng luật chuyên ngành (Luật Thương mại, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh bất động sản...) đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà luật chuyên ngành đó đang có hiệu lực để giải quyết tranh chấp, nếu luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng Bộ luật Dân sự để giải quyết.

Đọc thêm