Bộ Công an cho biết, theo quy định tại khoản 6 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016, “bạo lực trẻ em là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các hành vi khác cố ý xúc phạm thân thể, tinh thần của trẻ em”. Như vậy, không chỉ những hành vi gây thương tích về thể chất, mà cả những hành vi làm tổn hại đến tinh thần của trẻ dù không để lại dấu vết trên cơ thể vẫn bị coi là bạo lực. Việc lấy lý do "răn đe, giáo dục" cũng không làm thay đổi bản chất pháp lý của hành vi, nếu nó gây hậu quả tiêu cực đến tâm lý trẻ.
Hành vi bạo hành trẻ em là một hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật và đạo đức xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thể chất, tinh thần và tương lai của trẻ. Pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể nhằm xử lý nghiêm hành vi này, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cụ thể:
Căn cứ Điều 22 Nghị định số 130/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi: Đánh đập gây tổn hại thân thể nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của trẻ em; Cố ý gây tổn thương tâm lý cho trẻ.
Biện pháp khắc phục: Buộc xin lỗi công khai (nếu nạn nhân hoặc người giám hộ yêu cầu); Buộc chi trả chi phí chữa trị, phục hồi tâm lý (nếu có thiệt hại). Nếu người vi phạm là cha mẹ, người giám hộ, giáo viên... có thể bị tạm đình chỉ công tác hoặc tước quyền chăm sóc, nuôi dưỡng trong một thời gian nhất định.
Theo Điều 52, Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021. Cụ thể, tại khoản 1, Điều 52 "Hành vi bạo lực thể chất đối với trẻ em": Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi: Đánh đập gây tổn thương về thể chất cho thành viên gia đình (trong đó có trẻ em); Hành vi không gây thương tích nặng nhưng mang tính chất thường xuyên, kéo dài.
Khoản 2, Điều 52 "Hành vi bạo lực tinh thần đối với trẻ em": Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi: Lăng mạ, chửi bởi, đe dọa gây tổn thương tinh thần cho trẻ; Cô lập, xua đuổi, khống chế các hành vi xã hội bình thường của trẻ.
Khoản 3, Điều 52 "Hành vi xâm hại về danh dự, nhân phẩm": Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi: Làm nhục, xúc phạm danh dự nhân phẩm trẻ em trong gia đình; Cố ý làm tổn thương tâm lý nghiêm trọng.
Biện pháp khắc phục: Người vi phạm có thể bị áp dụng biện pháp bổ sung theo quy định tại Điều 4 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, gồm: Buộc xin lỗi công khai nếu có yêu cầu; Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc tham gia chương trình giáo dục, tư vấn về kỹ năng ứng xử trong gia đình; Buộc bồi thường thiệt hại (nếu có) theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Khi hành vi bạo hành gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có tính chất nghiêm trọng, người vi phạm có thể bị truy cứu theo Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):
Điều 140. Tội hành hạ người khác. Áp dụng với người có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ (cha mẹ, người giám hộ...): Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm nếu: Có hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên đánh đập, gây tổn thương thể chất hoặc tinh thần cho trẻ;
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu: Hành vi có tổ chức, mang tính chất côn đồ; Gây hậu quả nghiêm trọng (chấn thương nặng, sang chấn tâm lý kéo dài).
Điều 134. Tội cố ý gây thương tích. Nếu hành vi đánh đập trẻ gây thương tích trên 11% hoặc dưới 11% nhưng sử dụng vũ khí nguy hiểm, có tổ chức, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm hoặc tù chung thân tùy mức độ.
Điều 185. Tội ngược đãi hoặc hành hạ con, cháu: cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu thường xuyên đánh đập, đối xử tàn nhẫn.
Điều 123. Tội giết người: Nếu hành vi bạo hành dẫn đến hậu quả làm chết trẻ em. Mức phạt: Tù từ 12 năm đến tử hình.
Các biện pháp bảo vệ trẻ em bị bạo hành cũng được quy định rõ trong các văn bản pháp luật hiện hành. Người vi phạm có thể bị cấm hành nghề nếu là giáo viên hoặc người làm trong lĩnh vực chăm sóc trẻ; bị tước quyền nuôi con hoặc chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan bảo vệ trẻ em.
Trong những trường hợp cần thiết, trẻ bị bạo hành sẽ được cách ly khỏi người gây hại để đảm bảo an toàn. Trẻ cũng sẽ được hỗ trợ chăm sóc y tế, tư vấn tâm lý, hỗ trợ pháp lý miễn phí, và nếu cần thiết, có thể được đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc tổ chức nuôi dưỡng tạm thời.