Biểu tượng của lòng hiếu thảo
Chùa Từ Hiếu thuộc phường Thủy Xuân, TP. Huế (tỉnh Thừa Thiên – Huế), ban đầu chỉ là một Thảo Am với tên gọi là am An Dưỡng do Tổ sư Nhất Định lập nên. Ngài nguyên là tăng cang của chùa Giác Hoàng trong cung, sau cáo lão về rừng để nuôi dưỡng mẹ già và tu hành thanh tịnh tại đây.
Tương truyền vì mẹ già ốm nặng phải bồi dưỡng thịt cá nên ngày ngày vị sư phải chống gậy vượt đoạn đường hơn 5km đi tìm cá tươi về nấu cháo cho mẹ. Người đời thấy vậy nên đàm tiếu là hòa thượng nhưng lại ăn mặn, ngài vẫn bỏ ngoài tai để tận tâm chăm sóc cho mẹ.
Chuyện đồn đến tai vua Tự Đức, nhà vua bèn cho người tìm hiểu mới hay thiền sư nấu cháo cho mẹ ốm đau còn mình ngày ngày vẫn chay tịnh, một tâm tu hành. Vua nghe vậy mới cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của vị thiền sư.
Sau này, vào năm 1848, một năm sau ngày thiền sư Nhất Định viên tịch, có lẽ, cảm động trước sự đức độ của vị sư già mà việc xây dựng mở rộng Thảo Am thành chùa Từ Hiếu luôn được triều đình, các quan thái giám và các phật tử quan tâm giúp đỡ. Khi chùa được hoàn thành, vua Tự Đức nhớ đến chuyện xưa mà đặt cho chùa tên là “Từ Hiếu tự”.
Trên tấm văn bia tại chùa nay còn ghi rõ: “Từ là đức lớn của Phật, nếu không Từ thì lấy gì tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại; Hiếu là đầu hạnh của Phật, nếu không Hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời”. Có nghĩa Từ là để dạy thiên hạ cái đạo làm cha và Hiếu để dạy thiên hạ cái đạo làm con. Ngôi chùa từ đó đã đi sâu vào lòng người không phải bằng bề dày lịch sử hay công trình tráng lệ mà nhẹ nhàng với trường ca hiếu nghĩa và độ sinh.
Với câu chuyện cảm động, chùa Từ Hiếu đã trở thành một biểu tượng của chốn thiền môn về đạo hiếu trong suốt nhiều thế kỷ qua. Cũng không biết từ bao giờ ngôi chùa cũng trở thành biểu tượng cho lòng hiếu thảo của con cái đối với những bậc sinh thành. Điều đó đã thấm sâu vào đời sống văn hóa của người dân nơi đây như một nét đẹp.
Cứ mỗi dịp Vu Lan về, các Phật tử lại đến chùa làm lễ và cài lên áo những đóa hoa màu hồng hoặc màu trắng để thể hiện tấm lòng hiếu thảo của mình. Ít ai biết rằng đây chính là nơi thiền sư Thích Nhất Hạnh trụ trì. Ông chính là người đã đặt nền móng khai sinh ra tục lễ “bông hồng cài áo” mà đến nay đã trở thành một nét văn hóa riêng của người Việt. Những ý nghĩa đó cũng xuất phát từ chính ngôi chùa mang tên “Từ Hiếu” này.
Không chỉ là ngôi chùa gắn liền với câu chuyện đạo hiếu cảm động, chùa Từ Hiếu còn nổi bật bởi sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và khung cảnh thiên nhiên thơ mộng khiến nhiều người như lạc vào thế giới nửa thực nửa mơ của những rừng thông xanh mướt. Đây cũng là một trong những điểm nổi bật của những ngôi chùa ở xứ Huế, luôn hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên.
Theo những con đường nhỏ rợp bóng cây, chùa Từ Hiếu dần hiện ra với không gian thoáng đãng, sơn thủy hữu tình, vừa mang nét giản dị vừa mang dáng dấp của kiến trúc cung đình Huế. Điều này thể hiện rõ trong từng nét chạm khắc, trong cách đắp và trang trí gốm sứ trên các bức phù điêu với những hoa văn rồng phượng.
Nét giản dị của chùa thể hiện qua lối kiến trúc chữ “Khẩu” với ba gian hai chái truyền thống tạo thành tổng thể khép kín. Gian chính điện là nơi thờ Phật còn phía sau là nơi thờ Tổ. Khác với nhiều ngôi chùa khác, bên cạnh những bức tượng Tam thế phật, Phật Thích Ca thì việc thờ tranh thay tượng cũng là nét đặc biệt khiến không gian chốn thờ tự vốn uy nghiêm trở nên gần gũi hơn.
Nghĩa trang đặc biệt của những vị thái giám
Một điểm đặc biệt nữa đó là Chùa Từ Hiếu còn gọi là chùa Thái giám. Theo sử cũ còn để lại thì thái giám ra đời từ thời Tây Chu ở Trung Quốc. Trước khi đưa vào hoàng cung để hầu hạ các bậc vua chúa, các thái giám phải bị loại bỏ phần sinh thực khí của đàn ông để không “tòm tem” với các phi tần cung nữ của nhà vua được. Các thái giám sẽ sống suốt đời trong cung đến cuối đời, khi về già họ sẽ nằm chờ chết tại tòa nhà phía Bắc Hoàng thành, gọi là Cung giám viện chứ không được chết ở trong cung.
Sau khi về già các thái giám bị đuổi ra khỏi cung, không nơi ở, không người thân, không quê hương, họ chỉ biết sống qua ngày, chờ chết tại Cung giám viện, sau khi chết không có nơi nào để chôn cất, không nơi thờ tự, không ai hương khói. Châu Phước Năng sớm nhận ra điều này.
Trước cơ sự như vậy, ông đã kêu gọi các hoạn quan trong triều đình quyên góp và ủng hộ để mở rộng Thảo Am đường nhằm có nơi yên nghỉ. Việc này được vua Tự Đức và thái hậu Từ Dũ chấp nhận đồng thời cũng quyên góp. Cái tên Từ Hiếu được vua Tự Đức ban tặng có nghĩa là “hiếu thuận”. Do có sự giúp đỡ và đóng góp của các thái giám nên ngôi chùa này còn có tên gọi khác là chùa thái giám.
Mặc dù đóng góp phần lớn của cải và công sức để xây dựng chùa nhưng sau khi chết các thái giám lại được chôn trên một ngọn đồi nhỏ nằm tách biệt khỏi khuôn viên của chùa Từ Hiếu.
Toàn bộ khu nghĩa trang của thái giám rộng khoảng 1.000 m2, ở ngay chính giữa có tấm bia đá khắc ghi công lao đóng góp của các thái giám. Khu lăng mộ này được chia làm thành 3 bậc tương ứng với vai trò và sự đóng góp khác nhau của các quan thái giám.
Bậc trên cùng là của thái giám Châu Phước Năng, người đóng góp nhiều nhất cho chùa vì vậy ngôi mộ này cũng to hơn những ngôi mộ nằm cạnh bên. Toàn bộ khu lăng mộ có 25 ngôi mộ, trong đó có 2 ngôi mộ gió (mộ không có thi hài).
Trong tổng số 25 ngôi mộ thì có 21 ngôi mộ có thể đọc được chữ trên bia, đặc biệt là ngôi mộ số 22 chữ trên bia còn khá rõ. Trên bia của ngôi mộ này ghi: "Hoàng triều cung giám viện, quảng vụ Nguyễn Hầu, quên ở thôn Nhi, Hà Nội, mất tháng giêng năm Khải Định thứ 5".