Đi nước ngoài làm việc cách nào tránh được rủi ro?

(PLVN) - Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ,TB&XH) Nguyễn Gia Liêm cho biết, hoạt động di cư quốc tế của công dân Việt Nam ngày càng gia tăng mạnh mẽ với hàng triệu lượt người xuất nhập cảnh mỗi năm, hiện diện trên hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, các cơ hội cũng như lợi ích của việc di cư an toàn, hợp pháp chưa được người di cư đánh giá đúng mức.
Làm thủ tục xuất cảnh tại sân bay Nội Bài đi xuất khẩu lao động.
Làm thủ tục xuất cảnh tại sân bay Nội Bài đi xuất khẩu lao động.

Đối mặt nhiều rủi ro nếu đi “chui”

Ông Liêm cho biết, ở Việt Nam việc di cư ra nước ngoài có nhiều hình thức khác nhau như: Ra nước ngoài để làm việc (di cư lao động), ra nước ngoài để du học (di cư học tập), đi du lịch, đi thăm thân. Căn cứ vào mục đích mà mỗi hình thức ra nước ngoài đều có những yêu cầu, điều kiện hoàn toàn khác  nhau.

Lưu ý đặc biệt đối với hình thức di cư ra nước ngoài làm việc, ông Liêm cho biết, theo Luật Về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đi làm việc ở nước ngoài có 4 hình thức hợp pháp:

Thông qua doanh nghiệp hoạt động dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; thông qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài; thông qua doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề và người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức hợp đồng cá nhân.

Hiện hình thức đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thông qua doanh nghiệp dịch vụ là hình thức phổ biến nhất, với loại hình này, ông Liêm lưu ý người lao động, chỉ có các doanh nghiệp đã được Bộ LĐ,TB&XH cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mới được phép tuyển chọn, đào tạo, thu tiền và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. 

Tiếp đến là hình thức di cư ra nước ngoài làm việc theo hình thức hợp đồng cá nhân. Theo quy định tại Luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân phải đăng ký Hợp đồng cá nhân tại Sở LĐ,TB&XH nơi người lao động thường trú và phải đăng ký công dân tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại nước mà người lao động đến làm việc. 

Có như vậy người lao động mới được Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước mà người lao động đến làm việc, pháp luật và thông lệ quốc tế trong thời gian làm việc nước ngoài; được tư vấn, hỗ trợ để thực hiện các quyền và hưởng các lợi ích quy định trong Hợp đồng cá nhân. 

Việc công dân Việt Nam ra nước ngoài theo các kênh không chính thống sau đó ở lại cư trú và làm việc bất hợp pháp tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ và rủi ro.

Do không có đầy đủ thông tin về người sử dụng lao động, điều kiện làm việc, sinh hoạt, thiếu hiểu biết về văn hóa, tập quán của nước đến, không được trang bị kỹ năng làm việc, rèn luyện về tay nghề và ngoại ngữ nên những công dân này rất dễ trở thành nạn nhân của nạn buôn bán người, bị cưỡng bức lao động nhưng lại không được luật pháp nước sở tại thừa nhận và bảo vệ.

Ngoài ra, do công dân tự do đi làm việc ở nước ngoài không đăng ký với các cơ quan chức năng của Việt Nam, không đăng ký công dân tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại nước mà họ đến làm việc nên trong trường hợp gặp khó khăn, có phát sinh các vụ việc trong thời gian cư trú và làm việc ở nước ngoài, các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ rất khó tiếp cận, nắm bắt tình hình, tư vấn hỗ trợ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và thông lệ quốc tế.

Một số lưu ý khác  

Cục Quản lý lao động ngoài nước đã khuyến cáo các địa phương về tình hình người lao động đi làm việc ở nước ngoài bất hợp pháp và đề nghị các địa phương cảnh báo cho công dân các rủi ro của việc ra nước ngoài bằng visa du lịch rồi ở lại làm việc trái phép. 

Đồng thời, đề nghị các Sở LĐ,TB&XH kiểm tra, rà soát tình hình đi làm việc ở nước ngoài của người dân tại địa phương nhằm phát hiện các tổ chức, cá nhân không có chức năng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài nhưng lại môi giới, tuyển chọn, tổ chức đưa người đi trái phép để chuyển cho cơ quan chức năng xử lý theo quy định pháp luật.

Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng đưa ra cảnh báo các trường hợp đi trái phép đối với thị trường tiếp nhận đông lao động Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore. 

Đối với thị trường Nhật Bản, trong những năm gần đây, tình trạng thực tập sinh bỏ trốn và lao động bất hợp pháp tại Nhật diễn biến rất phức tạp. Nguyên nhân là do một số công ty phái cử và công ty tư vấn du học lừa gạt người Việt Nam để thu phí môi giới cao, quảng cáo sai sự thật về các chương trình vừa học vừa làm thu nhập cao. Điều này dẫn tới tình trạng nhiều người mang gánh nặng kinh tế khi ra đi và dễ bỏ trốn, phạm tội tại Nhật Bản.

Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết, những tư cách lưu trú hợp pháp đối với người lao động được công nhận ở Nhật là: Thực tập kỹ năng; kỹ sư hay các ngành nghề có trình độ chuyên môn cao; kỹ năng đặc biệt (bắt đầu áp dụng từ tháng 4/2019); du học, tư cách lưu trú nhằm mục đích du học không cho phép làm việc (riêng đối với trường hợp được cấp Giấy phép làm việc chỉ được làm thêm 28 giờ/tuần); du học sinh không được phép chuyển đổi sang hình thức thực tập sinh kỹ năng.

Đối với thị trường Singapore, pháp luật Việt Nam không cho phép các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở Singapore và các nước khác theo dạng hợp đồng tư vấn dịch vụ, hỗ trợ visa. Do đó, người lao động phải cảnh giác với các thông tin tuyển lao động sang Singapore làm việc.

Thời gian qua, có rất nhiều trang web đưa các thông tin đăng tuyển lao động đi làm việc tại Singapore nhưng hầu hết đều là những trang không chính thống hoặc những công ty không có giấy phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài do Bộ LĐ,TB&XH cấp. 

Hiện tại, chính quyền Singapore cấp phép khá hạn chế cho lao động nước ngoài, người lao động nước ngoài làm việc hợp pháp tại Singapore là những người được cấp một trong 3 loại visa: Work Permit; S Pass (visa S Pass) và E Pass.

Đối với thị trường Hàn Quốc, lao động đang làm việc tại Hàn Quốc theo ba kênh cung ứng chính là: Chương trình cấp phép việc làm (chương trình EPS), chương trình thuyền viên làm việc trên tàu đánh cá và chương trình lao động kỹ thuật cao (visa E7). Ngoài ra, từ năm 2018 Chính phủ đồng ý cho thí điểm đưa lao động thời vụ 3 tháng sang Hàn Quốc làm nông nghiệp thông qua hợp tác giữa hai địa phương hai nước. 

Người lao động muốn sang làm việc tại Hàn Quốc chỉ có thể tham gia vào một trong các chương trình trên, không thể đi bằng con đường nào khác. Đặc biệt lưu ý, công dân sang Hàn Quốc bằng hình thức visa nào (thể hiện mục đích chuyến đi) thì chỉ có thể xin tư cách lưu trú bằng loại visa đó mà không thể chuyển đổi sang loại hình visa khác, ví dụ xin visa du lịch thì không thể chuyển thành visa lao động sau khi sang Hàn Quốc được.

Đọc thêm