Kỳ công, đắt gấp 5-6 lần nón thường
Làng nón ngựa Phú Gia (xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) có tuổi đời hơn 300 năm. Nón ngựa Phú Gia được xem là “kiệt tác” của nón lá. Gọi là nón ngựa bởi chiếc nón có được sự dẻo dai, bền bỉ thích hợp dùng đội khi cưỡi ngựa. Nó biểu tượng cho sự mạnh mẽ, uy nghiêm của con nhà võ, gắn với những đội quân Tây Sơn thần tốc. Chính những nghệ nhân làm nên nón ngựa Phú Gia cũng thấy hứng khởi trước vẻ đẹp của chiếc nón họ làm ra.
Chúng tôi gặp nghệ nhân Đỗ Văn Lan, mới 70 tuổi nhưng ông đã có đến 55 năm gắn bó với nghề làm nón ngưa. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống 4 đời làm nghề nón ngựa, rồi bén duyên với nghề này từ thời niên thiếu. Hồi đó, thấy ông nội, cha mẹ ngày ngày cần mẫn bên những chiếc nón, ông cũng bắt đầu theo học làm. Nhờ đôi bàn tay khéo léo tài hoa cùng với niềm đam mê, ông đã nhanh chóng trở thành nghệ nhân xuất sắc trong nghề làm nón ngựa Phú Gia.
Theo ông Lan, thời xưa, nón ngựa chỉ dành riêng cho giới phong lưu, quyền quý. Với những mẫu hoa văn như long, lân, quy, phụng thì thể hiện quyền uy trong thời đại phong kiến. Những người có chức sắc khác nhau, các mẫu họa tiết sẽ được thêu khác nhau. Trông vào đó mà ta có thể biết được phẩm hàm của từng quan lại trong địa phương. Từ xã trưởng trở lên mới có chụp bằng đồng hay bạc chạm trổ theo phẩm trật, trên đỉnh là núm hình quả trám nhọn hoắt.
Đặc biệt, giới phong lưu thường chuộng mẫu hoa văn như mai, lan, cúc, trúc vì nó là biểu tượng của sự thanh tao, đài các, thể hiện được sự luân chuyển của thời tiết bốn mùa. Cũng chính nhờ có những mẫu họa tiết này mà khi đội trên đầu, nón ngựa Phú Gia vừa có nét cao sang quý phái, vừa được sự trang nhã, mềm mại trở thành nét đặc trưng không lẫn vào đâu được.
Bây giờ, nón ngựa trở thành một sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo bởi sự cầu kỳ, tỉ mẩn và tài hoa trong từng đường nét. Để có được một chiếc nón thành phẩm, người thợ phải dụng công nhiều ngày. Người làm nón phải lên thượng nguồn các huyện Tây Sơn, Vĩnh Thạnh giáp với Tây Nguyên để chặt cây giang đem về chẻ ra từng miếng cật dày, rồi phơi khô và tước ra thành cây tăm thật nhỏ, đều.
Lá kè (lá cọ) làm nón không được quá già hoặc quá non, đem phơi nắng, phơi sương để lá vừa khô vừa có được độ mềm dẻo cần thiết. Các nguyên liệu khác như rễ dứa rừng, cước, chỉ màu, vải the... cũng đều được tuyển chọn kỹ lưỡng trước khi bắt tay thực hiện 20 công đoạn làm nón ngựa. Trong đó, 4 công đoạn quan trọng nhất là tạo sườn mê, thắt nan sườn, thêu hoa văn trên sườn và lợp lá cho nón.
Ở làng nón ngựa Phú Gia, hầu hết người dân chằm hai loại nón ngựa, với giá cả khác nhau. Chiếc nón bình thường thì chóp nón để trần, trên đỉnh có một chùm chỉ ngũ sắc phất phơ như bông hoa. Chiếc nón làm theo nguyên mẫu truyền thống này có giá từ 300.000 - 500.000 đồng/chiếc, tùy kích cỡ.
Bà Tâm đang chằm nón ngựa |
“Làm nón ngựa cũng thú vị lắm! Nó như một tác phẩm độc lập, gắn với tâm huyết nghệ thuật của mỗi người chế tác. Chính vì là sản phẩm làng nghề thủ công nên nó càng quý trong thời sản xuất máy móc. Khách du lịch, các nhà kinh doanh nước ngoài mỗi khi đến đây đều mua đi hàng chồng nón ngựa. Đến bây giờ, đơn hàng đáng nhớ nhất của gia đình tôi là 10 chiếc nón ngựa do một nữ du khách trẻ tuổi người Pháp đặt để mang về nước làm quà lưu niệm, với giá 3 triệu đồng/chiếc”, bà Tâm chia sẻ.
Đối với loại nón ngựa làm bắt mắt hơn thì trên đỉnh nón được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long, ly, quy, phụng. Quai nón được làm bằng những dải lụa đỏ hoặc xanh, chỗ dưới cằm có chỏm tua. Chi phí để làm chiếc nón ngựa này khoảng 2,5 triệu đồng nên giá thành cũng cao hơn chiếc nón bình thường. Thậm chí có những chiếc nón chóp bạc lên tới 15-30 triệu.
“Ở Phú Gia, ngày cưới nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể đội nón ngựa độc đáo này. Còn những nhà nghèo cũng ráng sắm vài đôi nón ngựa truyền thống cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày trọng đại này”, ông Lan tâm sự.
Tỏa khắp năm châu
Làng nón ngựa Phú Gia hiện nay có hơn 200 người làm nón. Về nơi đây, chúng tôi chứng kiến cảnh nhộn nhịp, đầm ấm của người dân. Cứ hai, ba nhà tập trung lại với nhau, từ các bác, các chị phải đeo kính, tựa cột, đến các em học sinh tuổi 15, 17 đều vui vẻ trò chuyện trong tiếng thì thụp của mũi kim chằm nón.
Trước đây, người ta vẫn coi nghề làm nón là nghề phụ không đáng kể, nhưng với bây giờ thì ngược lại, nghề này rất hợp với chị em phụ nữ ở nông thôn. Sau mùa làm mạ gieo cấy, họ sử dụng thời gian nông nhàn để làm nón. Công việc nhanh có tiền lại không nhiều vốn như các nghề khác. Nói như vậy không phải làm nón là một việc dễ dàng. Để làm được chiếc nón, đôi bàn tay cầm kim phải dùng lực của ngón cái và ngón trỏ để cắm và rút kim, cũng ê ẩm nặng nhọc chẳng khác gì người gánh lúa.
Ở làng nghề này, trẻ em 10 tuổi là đã được nhắc việc học làm nón, 15 tuổi đã ra thợ lành nghề. Ngoài giờ học, nhiều em ngồi chăm chỉ chằm nón, phụ giúp kinh tế gia đình. Theo bà Nguyễn Thị Tâm (66 tuổi) một người am hiểu về nghề nón ngựa nơi đây, nhờ có nghề nón phát triển sâu rộng nên con em ở đây ít tình trạng thiếu việc làm, không học lên nghề khác thì ở nhà làm nón cũng sống ổn.
“Nhiều người băn khoăn rằng bây giờ ai còn đội nón. Thế nhưng các bạn cứ về nhiều vùng nông thôn quanh đây mà coi, chợ nón vẫn sầm uất, rồi nón còn đi khắp thế giới. Đặc biệt, nón ngựa Phú Gia với giá cả cao hơn hẳn nón thường, vậy mà lúc này làm không kịp nhu cầu. Nhờ thông thương kinh tế, phát triển du lịch, chiếc nón Phú Gia đã tỏa đi khắp năm châu”, bà Tâm không giấu vẻ tự hào của mình.
Quả vậy, đơn đặt hàng nón ngựa Phú Gia luôn chặt cứng trong 5 năm gần đây. Người chằm nón làm không hết việc. Có được điều đó là nhờ ngành chức năng chú trọng đầu tư, quảng bá hình ảnh làng nghề nên nón ngựa Phú Gia có thêm nhiều người biết tới. Và điều quan trọng là độ bền chắc khác biệt của chiếc nón mà không nơi nào có thể sánh được.
Minh chứng cho điều đó là chiếc nón “gia bảo” là kỷ vật của người mẹ để lại cho ông Lan, cũng chính là những “khuôn mẫu” để ông Lan bắt tay làm những chiếc nón ngựa. Dù đã ngả màu thời gian nhưng chiếc nón ngựa vẫn chắc chắn. Vành cứng, chỉ thêu còn nguyên màu, rõ hoa văn, chữ nghĩa, lá chưa sờn.
Và điều bất ngờ nằm ở chỗ, chiếc nón này có tuổi đời đúng hơn thế kỷ và được sử dụng liên tục 45 năm. Chúng tôi nhìn chiếc nón, nó không chỉ đẹp vì đường nét, mà còn vì ánh lên từ đó màu thời gian của đời người.
Ông Nguyễn Đức Hoàng - Chủ tịch UBND xã Cát Tường, cho biết: “Bà con làm nón luôn linh hoạt, mạnh dạn đầu tư tìm đầu ra. Cán bộ ở đây đều phải coi việc góp tay tôn tạo làng nghề là nhiệm vụ thường xuyên của mình. Chúng tôi luôn tìm mọi cách để hút các nguồn vốn, tìm cơ hội quảng bá cho làng nón Phú Gia. Quan trọng hơn, chúng tôi luôn kính nể tình yêu nón ngựa của các thế hệ nghệ nhân, tạo nên sức sống bền bỉ cho làng nghề Phú Gia”.