Cách đây 2 tháng, Bệnh viện Nhi trung ương tiếp nhận một học sinh nữ bị cô giáo phê bình ở trên lớp nói chuyện làm việc riêng. Em cho rằng mình bị oan vì không làm điều này, thêm vào đó là bối cảnh gia đình của em cha mẹ cũng có bất ổn từ lâu. Tâm trạng nặng nề như vậy nên khi gia đình thay vì lắng nghe, thấu hiểu, yêu cầu em phải làm bản kiểm điểm để nhận lỗi, em đã tự tử. Khi được đưa đến bệnh viện, em ở tình trạng phải thở ô-xy và đã quá muộn để cứu sống.
Hiện nay, Khoa Sức khỏe vị thành niên - Bệnh viện Nhi trung ương cũng đang điều trị cho một học sinh nữ 12 tuổi. Cô bé không hợp bố mẹ và chỗ dựa tinh thần chính là anh trai. Nhưng cách đây vài tháng, anh trai đã sang nước ngoài học tập khiến em bị rơi vào trạng thái trầm cảm và từng có ý tưởng tự sát.
Những trường hợp trên được TS, BS Đỗ Minh Loan - Trưởng khoa Sức khỏe vị thành niên - chia sẻ trong hội thảo “Rối loạn tâm thần tuổi học đường” do Bệnh viện Nhi trung ương vừa tổ chức ngày 24/11. Với trường hợp đầu tiên, TS, BS Đỗ Minh Loan rất buồn khi bất lực không thể cứu sống được cô bé, còn trường hợp thứ hai, hiện các bác sĩ trong khoa đã can thiệp tâm lý cho bệnh nhân được khoảng 10 buổi và gia đình có phản hồi tâm trạng của em gái đã cải thiện tốt hơn.
Trẻ thành thị, trẻ nữ chịu tỷ lệ rối loạn cao hơn
Theo y học, rối loạn sức khỏe tâm thần ở trẻ em được coi là sự chậm trễ hoặc gián đoạn trong việc phát triển tư duy, hành vi, kỹ năng xã hội hoặc điều chỉnh cảm xúc phù hợp với lứa tuổi.
Căng thẳng học tập, thiếu sự hỗ trợ; môi trường học đường bất ổn; gặp trở ngại trong các mối quan hệ tình cảm; sự thay đổi tâm lý, dậy thì trong giai đoạn học đường; thiếu phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và trường học là những yếu tố khiến trẻ em lo lắng và làm gián đoạn khả năng hoạt động tốt của trẻ ở nhà, ở trường hoặc trong các tình huống xã hội khác.
Theo nghiên cứu gần đây nhất, tại Việt Nam, tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần dao động từ 8-29% ở trẻ em và vị thành niên. Trong đó, rối loạn tăng động giảm chú ý chiếm 14,1%; rối loạn cảm xúc 11,5%; rối loạn ứng xử là 9,2%. 5% trong 10 nghìn người nghiện có hồ sơ quản lý là trẻ dưới 18 tuổi (50% là trẻ dưới 16 tuổi).
Năm 2019, Bệnh viện Nhi trung ương đã tiến hành một cuộc khảo sát với 834 học sinh tại Hà Nội và 726 học sinh tại Hưng Yên cho thấy, tỷ lệ trầm cảm với các mức độ khác nhau ở Hà Nội là 31,3% và Hưng Yên là 18,6%; Tỷ lệ lo âu tại Hà Nội là 42,6% và Hưng Yên là 36,5%; Tỷ lệ trẻ stress tại Hà Nội là 38,8% và Hưng Yên là 21,8%.
Các khu vực đại diện cho khu vực phía bắc như Mường Khương, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu và một số tỉnh đồng bằng bắc bộ và đặc biệt là vùng Hà Nội đều ghi nhận tình trạng này.
“Chúng tôi đánh giá, ở các khu đô thị lớn, tỷ lệ rối loạn tâm thần có vẻ có xu hướng cao hơn ở tỉnh, thành khác. Trẻ nữ tỷ lệ lo âu trầm cảm, sang chấn tâm lý cao hơn so với trẻ nam. Trẻ trong gia đình có mâu thuẫn, tỷ lệ rối loạn cao hơn so với các em trong gia đình có sự hòa hợp. Điều này đòi hỏi các bác sĩ y khoa phải có kiến thức về tâm lý, tâm thần của trẻ em và đặc biệt là ở lứa tuổi học đường để can thiệp cho các em”, TS, BS Đỗ Minh Loan nêu quan điểm.
Thay đổi nhận thức của cha mẹ, thầy cô
Theo GS.TS Lê Thanh Hải - Giám đốc Bệnh viện Nhi trung ương, trẻ em là đối tượng phát triển tâm sinh lý chưa hoàn thiện nên dễ gặp những rối loạn tuổi học đường. Nếu không phát hiện sớm, can thiệp sớm đúng cách sẽ để lại hậu quả vô cùng to lớn, học hành sút kém, rối loạn hành vi và rối loạn về tâm thần.
Trong khi đó, nhiều bậc phụ huynh cũng coi những biến đổi tâm lý của trẻ em nhiều khi là do phản ứng thái quá vì căng thẳng hoặc cho rằng đó là tâm lý tuổi dậy thì, đến khi trẻ có những phản ứng gây nguy hiểm cho tính mạng thì can thiệp quá muộn. Việc phát hiện, điều trị giúp các em vượt qua những rối loạn đòi hỏi sự quan tâm sát sao của các bậc phụ huynh.
Theo TS, BS Đỗ Minh Loan, hiện nay, một số trường đã thành lập Phòng tham vấn tâm lý học đường, hỗ trợ các vấn đề tâm lý không quá phức tạp, giúp học sinh tiếp cận với các chương trình phòng ngừa sớm và ngay tại trường học. 62-71% học sinh mong muốn được chuyên gia tư vấn trong trường học. Các mạng lưới tâm lý học đường được kết nối với các cơ sở y tế. Tuy nhiên, hoạt động này chưa được triển khai đồng đều tại các trường học, sự gắn kết còn lỏng lẻo.
Nhiều gia đình khi đưa các cháu đến khám đều cho rằng con mình không có vấn đề gì nghiêm trọng, nhưng thực tế, khi làm việc với các em nhỏ, các bác sĩ mới nhận ra rất nhiều điều bất ổn như stress, sang chấn tâm lý từ chính môi trường học tập và cuộc sống gia đình của các em. Hầu hết các ca đến khám tại Khoa Sức khỏe vị thành niên - Bệnh viện Nhi trung ương đều ở trong tình trạng mắc các rối loạn tâm lý vừa và nặng.
Chính vì thế, Khoa Sức khỏe vị thành niên của Bệnh viện Nhi trung ương thời gian qua đã gửi công văn tới các trường thiết lập mạng lưới y tế - giáo dục để khi có vấn đề phức tạp về tâm lý của trẻ em, các bác sĩ sẵn sàng tiếp nhận điều trị. Bệnh viện sẽ hỗ trợ các thầy cô nhận dạng một số vấn đề với học sinh của mình để phát hiện và tư vấn cho cha mẹ đưa con đi khám kịp thời. Giáo viên nhận thấy các em có vấn đề trong môi trường học đường sẽ có cách thưởng phạt phù hợp.
“Chúng ta cần phải đặt vào vị trí của các em nhỏ chứ đừng áp đặt tâm lý của người lớn lên trẻ em. Chúng tôi mong muốn được đồng hành cùng các gia đình và nhà trường, bảo đảm các em có sự phát triển hoàn hảo khi trưởng thành”, TS, BS Đỗ Minh Loan nhấn mạnh.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, 20% trẻ em và vị thành niên có rối loạn tâm thần, 50% khởi phát ở độ tuổi 14. Trầm cảm là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tàn tật ở trẻ vị thành niên. Tự tử là nguyên nhân thứ ba gây tử vong ở lứa tuổi 15-19. Các phát hiện từ các nghiên cứu dịch tễ học của các quốc gia có thu nhập cao cho thấy tỷ lệ mắc 8-18% đối với các rối loạn tâm thần ở trẻ em độ tuổi đi học.