Chịu ác báo vì làm nhục người khác
Thanh triều thời vua Càn Long (Trung Quốc) có một thanh niên họ Đỗ sinh ra trong một trong gia đình nông dân nghèo, khi anh tới tuổi trưởng thành, gia sản vẫn chẳng có gì và cha mẹ đều đã già yếu. Từ khi còn nhỏ, cậu bé họ Đỗ luôn bị bạn bắt nạt, nhất là hàng xóm đồng niên họ Cổ vốn to con hơn, gia đình lại giàu có hơn. Lớn lên, cậu đi đâu gặp họ Cổ cũng đều bị trêu chọc, tranh giành, thậm chí còn bị hành hung.
Trong làng có tiểu thư xinh đẹp nhà Ngô, tính tình lại dịu dàng nết na. Tiểu thư họ Ngô từng học cùng trường với cả họ Đỗ và họ Cổ, thấy họ Đỗ hiền lành, dáng dấp thư sinh nên đem lòng cảm mến. Đôi bên đã qua lại vài lần, tình trong như đã mặt ngoài còn e. Họ Cổ thấy tình ý của tiểu thư họ Ngô với họ Đỗ, lập tức tìm cách chiếm đoạt, nhờ cha mẹ làm mâm cao lễ đầy tới hỏi cưới.
Gia đình tiểu thư họ Ngô thấy nhà Cổ bề thế, nghĩ con gái mình gả vào đây sẽ được sung sướng cả đời nên lập tức chấp thuận. Họ Đỗ nghe tin vô cùng buồn khổ, tiểu thư họ Ngô không muốn lấy họ Cổ nhưng vì phận con cha mẹ đặt đâu ngồi đấy nên đành nuốt nước mắt lên xe hoa.
Họ Đỗ nghĩ mình phận kém, làm gì cũng bị chèn ép nên không dám trách ai, sau đó cũng tìm được một thôn nữ hiền lành cùng làng kết duyên. Họ Đỗ và họ Cổ đều sinh được quý tử để nối dõi tông đường. Cả hai sau khi thành lập gia thất đều mở quán ăn kiếm kế sinh nhai do không thể theo nghiệp đèn sách mà đỗ đạt làm quan.
Dù quán họ Đỗ nấu ăn ngon, giá phải chăng, nhưng họ Cổ cậy có tiền và quyền, tìm cách phá họ Đỗ để kéo hết khách về quán mình. Họ Đỗ cũng ngậm bồ hòn làm ngọt, nói với vợ mình phúc đâu hưởng vậy, miễn đủ ăn qua ngày là được rồi.
Hai quý tử tới tuổi đến trường lại học cùng lớp và lịch sử lặp lại. Con trai họ Đỗ bị con trai họ Cổ bắt nạt hàng ngày, nào cướp đồ, đánh đập, chặn đường giam hãm không cho về...đều đủ cả. Cậu tủi nhục về mách cha nhờ tới trường xin phân xử. Nhưng họ Đỗ lần nào cũng gạt đi và bảo con chịu khó, “cha ngày xưa cũng vậy, bây giờ cũng chẳng sao, con đừng để bụng”, họ Đỗ dặn con.
Mỗi khi gặp mặt hai gia đình, họ Cổ luôn buông lời chế giễu hạ nhục, nhưng họ Đỗ vẫn cam chịu. Nhiều người thấy bất bình cho họ Đỗ, tuy nhiên bản thân anh cũng không hề phàn nàn nửa câu.
Hai quý tử nhà họ Đỗ và họ Cổ đều học hành giỏi giang, hơn phụ thân mình. Cả hai nhà đều cố gắng rèn con học tập. Đến lúc lên kinh dự thi, họ Cổ cử gia nhân chở con bằng kiệu cho đỡ nhọc nhằn đường xa để còn giữ sức giành ngôi đầu bảng làm quan to, còn họ Đỗ không có điều kiện, chỉ cho con tay nải thức ăn uống và dặn dò lên đường bảo trọng. Ngày chia ly vợ chồng họ Đỗ tiễn con trong nước mắt, trong lòng chỉ mong con sớm bình an trở về, đỗ đạt thì tốt không cũng chẳng sao.
Đường lên kinh không hề ngắn, phải mất mấy ngày mới tới. Hôm đó cảđoàn gồm công tử họ Cổ và 4 gia nhân khiêng kiệu, con trai họ Đỗ và một số bạn đồng niên khác. Sắp tới kinh thành có đoạn đi qua dãy núi vừa gặp bão bị sạt lở, người dân địa phương nói không nên qua lúc này mà chờ vài hôm tới hãy đi.
Tuy nhiên thời gian ứng thí không cho phép nên cả đoàn vẫn bạo gan đi tiếp, trong lòng cầu xin Thần Phật thương xót phù hộ được bình an.
Chẳng may đến giữa chừng núi thì lại sạt lở, đá đất lăn xuống ầm ầm, kiệu chở con trai họ Cổ khi ấy trúng đá tảng lớn bị văng xuống vực, họ Đỗ đi gần đó cũng bị rơi theo, nhưng may thế nào lại bám được vào khúc cây và khi xuống đến vực không hề bị thương tích gì, kể cả áo quần cũng chẳng rách lấy một mẩu.
Nhưng họ Cổ lại không may mắn được thế, bị đá đè và lìa đời lập tức. Những gia nhân sống sót nhìn thấy cậu chủ mất mạng sợ quá vội chạy về nhà báo tin dữ. Họ Đỗ thoát chết trong gang tấc vội quỳ lạy tạ ơn Thần Phật và tiếp tục lên kinh ứng thí, vừa hay tới đúng giờ và làm bài sau đạt điểm cao, đỗ bảng vàng làm quan to.
Họ Cổ than khóc cho con trai bạc mệnh, tức giận thấy con nhà họ Đỗ không những thoát chết mà còn được vinh danh bảng vàng. Họ Cổ không cam tâm cứ ôm mộ con mà khóc tới ngất đi, rồi nằm mơ thấy mình xuống dưới địa phủ. Tại đây gặp con trai đang bị còng rất khổ sở, vội chạy tới hỏi han khóc thương con.
Con trai nói với cha rằng: “Con mất mạng để trả thay nợ nghiệp cho nhà họ Đỗ. Lẽ ra con không tới số nhưng vì bao nghiệp nặng nhà họ Đỗ tích từ tiền kiếp con phải gánh, nguyên nhân là do cha và con đều xử tệ với họ, gây ra món nợ lớn với họ Đỗ, đã thế họ lại luôn nhẫn nhịn, không oán hận gì, thế nên cha con ta phải gánh hết nghiệp của họ. Cha hãy về và cố sống khác đi, nếu không sớm muộn sẽ phải chịu tội còn khổ hơn con đó”.
Nghe con trai nói vậy họ Cổ giật mình, cũng tỉnh luôn giấc mộng, lòng hối hận và khiếp sợ. Từ đó trở đi không dám hống hách và xử tệ với bất kỳ ai.
Thoát kiếp làm súc vật nhờ sớm giác ngộ
Hàng ngàn năm trước, có một ngôi chùa đá trên cao nguyên Tây Tạng theo truyền thống năm nào cũng thực hiện nghi lễ hiến tế. Mỗi khi thực hiện nghi lễ này, dân làng đều tụ tập đông đủ và chờ thấy tế khấn vái Thần linh trước khi hiến tế một con dê cho Thần. Lần đó là một thầy tế mới hành nghề. Ông chuẩn bị hiến tế con dê cho Thần. Tuy nhiên ông rất ngạc nhiên vì con dê tỏ vẻ vui mừng thay vì sợ hãi.
Ông bèn hỏi vì sao trông nó lại vui vẻ như vậy, con dê đáp: “Tôi đã bị giết 499 lần rồi. Sau lần này nữa là tròn 500 lần, tôi có thể được tái sinh làm người, bởi vậy mà tôi thấy hạnh phúc”.
Rồi con dê tiếp lời: “Thầy tế không hỏi vì sao tôi lại phải chịu kiếp dê và bị giết nhiều lần như vậy sao?”. Thầy tế bèn nhắc lại câu hỏi con dê vừa gợi ý.
Con dê khi ấy mới bắt đầu thổn thức và trả lời: “Tôi từng là thầy tế, từ lâu lắm rồi. Và tôi đã giết chết 500 con dê”. Nó nói rằng sau lần này nữa, nó sẽ được chuyển sinh làm người, còn thầy tế sẽ đầu thai làm dê và trả mối nợ sát sinh mà ông đã làm.
Thầy tế nghe xong thầm cảm ơn con dê vì đã tiết lộ Thiên cơ quan trọng đến vậy. Ông bèn thuyết phục người dân không sát sinh mà thay vào đó trả tự do cho con dê. Họ vẫn làm lễ tế Thần linh, nhưng không sát sinh. Kể từ đó người dân ở cao nguyên Tây Tạng dừng giết động vật để tế Thần.
Còn con dê không chịu họa sát thân để tế Thần, nó sống tiếp cho đến khi chết vì già và chuyển sinh thành người. Thầy tế cũng tránh tạo nghiệp nặng để sau đó chuyển sinh thành súc vật mà chịu họa sát sinh.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy luật nhân quả trong luân hồi luôn nghiêm minh và công bằng. Người nào phạm nghiệp sát sinh, kiếp sau ắt sẽ phải đầu thai làm súc vật để bị giết bất cứ lúc nào. Tuy nhiên nếu sớm ngộ được điều này mà dừng lại đúng lúc, thì nghiệp sẽ giảm bớt đi nhiều mà đỡ khổ về sau.