So với Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật này có nhiều bước tiến mới, nhất là trong việc quy định thêm các điều liên quan đến quan hệ chung sống của những người cùng giới và việc giải quyết hệ quả pháp lý của các mối quan hệ đó. Tuy nhiên, so với nhu cầu và khát vọng của cộng đồng những người đồng tính thì thực sự vẫn chưa "thấm tháp".
Ảnh chỉ có tính chất minh họa. Nguồn Internet |
Còn "nước đôi"
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung gần đây nhất đã được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến. Báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ cũng đã thừa nhận những bất cập của Luật năm 2010. Cụ thể là, một số quan hệ HN&GĐ đã và đang tồn tại trong thực tiễn song chưa được Luật quy định hoặc quy định chưa cụ thể, trong đó có việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính.
Tình trạng này cho thấy, Luật vừa không kịp thời bám sát thực tiễn vừa không bảo đảm được yêu cầu thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta liên quan đến việc cần phải đề cao, tôn trọng và bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân; gây ra không ít khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước đối với các vấn đề nhạy cảm trong lĩnh vực quan hệ HN&GĐ.
Tại hội thảo lấy ý kiến cộng đồng người đồng tính do Viện Nghiên cứu Kinh tế xã hội và môi trường phối hợp cùng nhóm 6+ tổ chức vào hôm qua - 17/9, đại diện Bộ Tư pháp - TS. Bùi Minh Hồng lý giải: Vấn đề đồng tính và chung sống với nhau, coi nhau là vợ chồng giữa những người cùng giới tính đang là vấn đề thực tế ở Việt Nam.
Mặc dù pháp luật hiện hành đã lựa chọn giải pháp cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng việc chung sống giữa những người cùng giới tính vẫn diễn ra và Nhà nước ta đã phải áp dụng các biện pháp hành chính cần thiết theo quy định của pháp luật để xử lý. Tuy nhiên, "trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội và trào lưu thế giới hiện nay thì việc cấm đoán và xử lý hành chính như hiện hành không còn phù hợp, cần thay đổi quan điểm và phương thức quản lý nhà nước về vấn đề này" - ông Hồng nhấn mạnh.
Vì vậy, Dự thảo Luật dự kiến sửa đổi quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính hiện được quy định tại khoản 5 Điều 10 Luật năm 2010 thành "Nhà nước không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính". Ngoài ra, Dự thảo Luật còn quy định các nguyên tắc giải quyết quan hệ chung sống như vợ chồng giữa họ.
Vui mừng vì điều khoản cấm được bãi bỏ, nhiều thành viên của cộng đồng người đồng tính bày tỏ mong muốn có hôn nhân bình đẳng: "Chúng tôi mong muốn và tin rằng mình có quyền kết hôn với người mình yêu bởi pháp luật Việt Nam luôn cam kết bảo vệ quyền con người, chống phân biệt đối xử". Có điều, họ cho rằng, quy định như trên của Dự thảo Luật là không rõ ràng, còn nước đôi và cảm thấy dự luật không đáp ứng nhu cầu của cộng đồng trong một số quan hệ như nuôi con, quyền đại diện cho nhau, giải quyết hậu ly hôn...
Trong giai đoạn hiện nay, cộng đồng người đồng tính hy vọng "ít nhất các cặp đôi cùng giới sống chung được đối xử hoàn toàn bình đẳng như các cặp đôi khác giới sống chung, dù có hay không có đăng ký kết hôn". Còn Viện trưởng Isee Lê Quang Bình mong đợi "điều này được thể hiện đầy đủ trong các điều khoản có liên quan của Luật HN&GĐ sửa đổi".
Nhưng không có nghĩa là kết thúc
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, nhiều nước đã giải quyết vấn đề này một cách có lộ trình. Trước hết, Nhà nước thừa nhận việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính sau đó mới thừa nhận hôn nhân giữa họ.
Chẳng hạn, Hà Lan quy định việc đăng ký kết hợp dân sự giữa những người cùng giới tính vào năm 1998, nhưng đến năm 2001 mới thừa nhận chính thức hôn nhân hợp pháp của họ. Cộng hòa Pháp thừa nhận quyền chung sống giữa những người cùng giới tính từ năm 1999 và vừa mới thừa nhận hôn nhân của họ trong năm 2013… Tại châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính, nhưng đã hợp pháp hóa quan hệ đồng tính vào năm 1997 (Trung Quốc), năm 2009 (Ấn Độ)…
Trong hoàn cảnh ở nước ta hiện nay, Chính phủ cũng cho rằng Nhà nước và pháp luật không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng Nhà nước không nên can thiệp hành chính vào quyền được sống theo bản dạng giới, khuynh hướng tính dục; cần tôn trọng việc sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính, cũng như các thỏa thuận của họ trong việc xác lập, giải quyết các vấn đề phát sinh từ cuộc sống chung. Không những thế, pháp luật sẽ có quy định thích hợp để giúp họ giải quyết một cách ổn thỏa các hậu quả pháp lý của việc sống chung nhằm góp phần bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của các đương sự và sự ổn định của xã hội.
Có thể nói, hôn nhân giữa những người cùng giới tính là vấn đề có tính nhạy cảm xã hội cao. Việc thừa nhận hôn nhân của họ cũng cần phải được xem xét, cân nhắc, nhìn nhận trên nhiều khía cạnh khác nhau với lộ trình, bước đi phù hợp. Và quan trọng hơn, theo chia sẻ của ông Hồng, quy định theo dự thảo không phải là "đóng cửa tại đây" mà các nhà làm luật sẽ tiếp tục nghiên cứu thực hiện có lộ trình để trong tương lai bảo đảm quyền bình đẳng kết hôn của người đồng tính.
Hoàng Thư