Trốn nhà đi học võ
Từ thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn) theo quốc lộ 19 về hướng tỉnh Gia Lai đến lưng chừng đèo An Khê (thuộc xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn), bên phía tay trái có một ngôi nhà cấp 4, xung quanh là những chậu cảnh, phía sau có một trang trại trù phú với vườn chanh, đào, cam và những đàn gà chạy nhảy. Đó là nơi lão võ sư Phi Long quy ẩn 27 năm nay.
Võ sư Phi Long là con thứ 3 trong tổng số 7 người con của võ sư Trần Sỹ Nghĩa. Vì là con nhà võ nên ngay từ khi Phi Long lên 6 tuổi, người cha đã dạy cho con trai những đường võ cơ bản.
Đến năm 10 tuổi, Phi Long tiếp tục được người bác ruột là võ sư Trần Lại dạy võ với mong muốn cháu mình theo nghiệp võ “cổ gia truyền”.
Tuy nhiên, 2 năm sau, vào một buổi trưa, khi Phi Long còn đang đi học chưa về, võ sư Trần Lại cùng 37 đồ đệ của mình ra bờ sông Kôn Căng dù luyện võ. Lúc này trời bỗng đổ mưa, một cơn sét đánh xuống làm ông Lại và 36 đồ đệ thiệt mạng, chỉ duy nhất ông Nguyễn Thêm sống sót.
“Hôm đó, vì đi học nên tôi may mắn sống sót, nếu không thì cũng chết rồi. Những ngày sau đó tang thương bao trùm cả huyện Tây Sơn. Đến nay, tôi và ông Thêm (hiện đang sống ở Đồng Phó) vẫn còn ám ảnh sự việc đau thương ấy”, võ sư Phi Long cho biết.
Bác mất, việc học võ bị gián đoạn nhưng vì đam mê võ thuật nên Phi Long cầu xin cha đi tìm thầy dạy võ cho mình. Thấy con trai tha thiết nên ông Sỹ cũng lặn lội đi tìm thầy giỏi về dạy võ cho con. Sư phụ tại gia đầu tiên của Phi Long là võ sư Nguyễn Thái Sơn (người ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định).
Lúc đó, thầy Sơn gần 60 tuổi, nổi tiếng bởi kỳ tích đánh được một con heo rừng rất to và hung dữ. Tuy nhiên, theo được 1 năm thì thầy Sơn bị mổ ruột thừa nên xin nghỉ, việc học của Phi Long cũng bị gián đoạn.
Ngay sau đó, ông Sỹ nghe nói có thầy Trịnh Thiếu Anh (người ở huyện Hoài Nhơn, Bình Định) có võ học tài ba, đặc biệt là rất giỏi đối kháng nên tìm đến rước về nhà dạy võ cho con. Dù vậy, dạy được một năm thì chiến tranh loạn lạc, thầy Anh quay về cố hương nên việc học của Phi Long một lần nữa bị gián đoạn.
Thế là Phi Long lại xin cha mời thầy khác về dạy. Tuy nhiên, lúc này ông Sỹ cho rằng, với cá tính mạnh mẽ như thế, nếu tiếp tục học võ, sau này con mình sẽ gây ra tai họa nên cương quyết không cho học nữa.
Dù bị cha nghiêm cấm nhưng Phi Long vẫn quyết tâm theo đuổi võ thuật. Ông quyết định trốn nhà, đi xuống vùng suối nước nóng Hội Vân (xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) gặp và bái võ sư Huỳnh Liểu (lúc ấy hơn 60 tuổi, còn gọi là Hương Kiểm Kính) làm sư phụ.
“Tôi quyết định bái võ sư Huỳnh Liểu làm sư phụ là vì ông ấy thường đi đánh võ đài, thắng nhiều người Pháp. Một thời gian ngắn theo học, thầy xem tôi là môn sinh tâm đắc, quý mến như con cái trong nhà nên đã chỉ dạy ông rất cặn kẽ từ lý thuyết đến thực hành về võ học, võ y”, võ sư Phi Long cho biết.
|
Võ sư Phi Long bây giờ. |
Học được 3 năm, Phi Long theo gia đình thầy Huỳnh Liểu tản cư vào Phú Tài (TP.Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) tiếp tục trau dồi võ nghệ. Tại đây, thầy Huỳnh Liểu cho ông đi đánh một số đài ở trong tỉnh và khu vực miền Trung, Tây Nguyên.
“Trận đấu đầu tiên trong nghề võ của tôi là đánh với Nguyễn Thành Công (hiện đang định cư bên Mỹ) tại Trường Tiểu học Tuy Phước (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định).
Vì ông Nguyễn Xuân Thành (cha của ông Công) là bạn thân thiết với thầy tôi nên hai bên thỏa thuận đánh hòa, chứ không phân định thắng thua”, võ sư Phi Long nhớ lại.
Bị đánh gãy chân sau 2 lần hạ đối thủ
Theo lời võ sư Phi Long, năm 1967, võ sư Huỳnh Liểu hướng dẫn con trai mình là Huỳnh Thảo cùng với ông mở võ đường Phi Long Thảo. Từ võ đường này, Phi Long được sư phụ cho đi đánh đài thường xuyên và tạo nên danh tiếng lừng lẫy về sau.
Dù còn trẻ và mới lên đài thi đấu, nhưng trận nào Phi Long cũng thắng nên danh tiếng vang xa. Lúc này, cha ông mới biết con mình trốn nhà tìm đến võ sư Huỳnh Liểu học võ.
“Khi tôi cũng có chút tiếng tăm, người dân ở Đồng Phó truyền tai nhau nên cha tôi mới biết tôi bấy lâu nay tôi trốn nhà theo thầy Liểu học võ. Lúc ấy, tôi mới dám về lại gia đình. Cũng may, cha mẹ không ruồng bỏ mà còn yêu thương tôi hết mực”, võ sư Phi Long cho biết.
Võ sư Phi Long cho biết: “Hồi ấy các võ đường thường xuyên đến Phi Long Thảo mời võ sĩ đi đánh cho họ. Những lần như thế sư phụ đều cho tôi đi đánh. Có điều, võ sĩ khi đi đánh cho võ đường nào thì mang họ của võ đường ấy, nên tôi mang nhiều danh xưng khác nhau”.
Theo đó, khi đi đánh cho võ đường Lý Xuân Tạo ở các trận đài cánh Bắc tỉnh Bình Định và Tây Nguyên, ông mang tên Lý Quốc Long. Từ tỉnh Phú Yên trở vào đến tỉnh Bình Thuận, người ta biết ông với tên Huỳnh Long vì đánh cho võ sư Huỳnh Tiền biệt danh “Cáo già miền Nam”.
Còn vùng Sài Gòn đi xuống miền Tây, ông mang tên Minh Long vì đánh cho võ sư Minh Cảnh, nhà vô địch quyền Anh Việt Nam trong những năm thập niên 40 của thế kỷ XX.
Ở võ đường Phi Long Thảo được 2 năm thì đến năm 1969, Phi Long được thầy Huỳnh Điểu cho phép xuất sư. Lúc này, ông quay về Đồng Phó, chính thức mở võ đường và lấy võ hiệu là Phi Long Long, gọi tắt là Phi Long. Võ đường của ông đã đào tạo khá nhiều môn đồ khắp các tỉnh thành trong và ngoài nước.
Năm 1970, võ sư Phi Long nghe tiếng võ sư Lưu Lễ nổi danh đất An Khê (tỉnh Gia Lai) nên tìm đến thách đấu. Lúc đầu, Lưu Lễ tỏ vẻ coi thường Phi Long nhưng sau đó lại thất bại thảm hại. Sau khi thua trận, võ sư Lưu Lễ tức giận trở về võ đường rồi mời võ sư nổi tiếng Hà Trọng Sơn đến nhà luyện tập, mong ngày phục thù.
Một năm sau, nhà hát Hoa Mộc Lan (tỉnh Kon Tum) mở võ đài nên Lưu Lễ gặp Phi Long thách đấu để trả thù. “Lúc này, bằng sự chân tình nên tôi không muốn đấu tiếp vì biết ông ấy sẽ thua.
Bởi dù có học gì đi nữa thì cốt cách của người học võ ngay từ đầu đã thiếu cơ bản thì khó mà bù đắp được. Một điều nữa là người học võ mà ỷ lại tông giống thì ắt sẽ thua”, võ sư Phi Long cho biết.
Dù nói bằng sự chân tình nhưng võ sư Lưu Lễ không nghe nên võ sư Phi Long phải miễn cưỡng đấu. Ngay trong hiệp 1, Phi Long đã hạ gục đối thủ bằng chân trái. Cú đá nhanh như gió, mạnh như vũ bão của Phi Long khiến đối phương trật quai hàm.
Theo võ sư Phi Long, một tháng sau, một số người dân ở An Khê mời ông lên dạy võ cho con họ. Thời gian này ông có quen với bà Nguyễn Thị Hường làm nghề may và thường xuyên qua lại nhà chơi. Biết được điều đó Lưu Lễ cùng học trò phục kích tại con đường vào nhà bà Hường chặn đánh ông để trả thù.
“Hôm đó tôi và một học trò từ trong nhà bà Hường ra nhưng may là học trò tôi đi ra phía sau để đi vệ sinh nên không bị đánh. Còn tôi đi thẳng ra đường liền bị 37 thầy trò Lưu Lễ phục kích đánh gãy chân trái.
Sau đó, học trò đưa tôi vào Bệnh viện An Khê, các bác sĩ nói phải tháo khớp chân nhưng tôi không đồng ý, vì nghĩ tháo khớp là cuộc đời mình bỏ đi. Sau đó, tôi về tự kê thuốc băng bó, phải điều trị rất lâu mới khỏi. Hồi đó tôi dùng thuốc rất nhiều chứ không là chết”, võ sư Phi Long nhớ lại.
|
Võ sư Phi Long hiện sống một mình trong căn nhà nằm lưng chừng đèo An Khê. |
Đến năm 2002, võ sư Lưu Lễ nhờ một người bạn thân của võ sư Phi Long dẫn đến nhà xin lỗi. “Thấy tôi không thù oán gì, ổng rất hối hận. Và dù lớn tuổi hơn, nhưng sau đó ổng rất tôn trọng tôi. Về sau tôi cũng lên nhà ổng thăm chơi. Năm 2009 ổng qua đời vì tuổi cao sức yếu”, võ sư Phi Long cho biết.
Trận đánh hóa “rồng”
Trong cuộc đời đấu võ của mình, võ sư Phi Long đánh 87 trận và chưa biết mùi thất bại là gì. Trong đó, có 68 trận hạ đối thủ trên đài, 19 trận còn lại đánh hòa vì đó là đánh giao hữu, thỏa thuận hòa từ trước.
Trận đánh làm ông nhớ nhất đó là đánh với võ sư Lam Chinh, người Campuchia, là lính chủng thiết giáp của quân Ngụy tại nhà hát Hoa Mộc Lan (tỉnh Kon Tum).
Theo võ sư Phi Long, Lam Chinh là người duy nhất không những đứng vững khi biểu diễn song phi, mà còn nắm được võ sĩ biểu diễn đưa lên cao. Chứng tỏ, nội công của Lam Chinh rất thâm hậu.
Võ sư Phi Long giải thích: “Song phi là màn võ sĩ phải phi lên để vượt qua 7 người đang đứng khom người phía trước. Sau đó hạ đối thủ ở trước mặt. Hồi ấy, chỉ duy nhất mình Lam Chinh là đứng vững nhờ nội công thâm hậu. Do đó, các thầy bảo rằng, có được nội công mạnh đến thế là do Lam Chinh có gồng, có bùa nên không cho tôi đánh”.
“Tôi phân tích cho các thầy rằng, Lam Chinh có gồng để cơ thể lên nội công chịu được đòn đánh. Nhưng con mắt, lỗ tai thì không thể lên nội công nên sẽ đánh vào những vị trí này.
Còn bùa chú thì lúc đối thủ niệm chú mình dùng hầu quyền, sử dụng cái nhanh nhẹn của khỉ để tấn công ngay, làm đối thủ không kịp trở tay lúc bùa chưa nhập vào người.
Khi vào đánh, tôi áp dụng như vậy, làm Lam Chinh trở tay không kịp, chống cự không nổi nên ngã gục trên đài”, võ sư Phi Long hào hứng kể.
Võ sư Phi Long bảo, ở trận đánh này ông còn vận dụng đòn đạp hậu là sở trường của mình để hạ gục đối thủ sau khi đã tấn công dồn dập. Ông cho biết: “Khi đang đánh mà đối thủ lùi hoặc dựa vào dây rin đài để mượn thế tấn công thì sẽ dính đòn đạp hậu của tôi ngay. Lam Chinh cũng vì lùi nên tôi mới hạ nhanh như vậy”.
Nói rồi, võ sư hào hứng khoe học trò của mình: “Cung Lê ở California (Mỹ) về đây bái tôi làm sư phụ. Trước đó nó đã học võ và nhiều lần lên đài, tôi cũng thường xuyên theo dõi nó đánh, nên khi nó xin theo học, tôi bảo không dạy võ nữa, nhưng sẽ dạy thêm những đòn đánh để áp dụng. Tôi dạy nó 3 đòn đánh, bảo nó về áp dụng công thủ hợp lý thì sẽ làm bàn đạp được.
Về bên Mỹ, nó sử dụng đòn đạp hậu tôi dạy rất tốt. Nó quay những clip gửi về tôi xem, tôi thấy đối thủ đang đánh với nó mà giãn ra là dính đòn liền”.
Theo võ sư Phi Long, thập bát binh khí ông đều học tốt, bởi với ông, học võ cũng như văn. 18 binh khí đều sử dụng rất thành thạo nhưng ông lại chuyên về quyền.
Ông bảo: “Nếu dùng hổ quyền thì mạnh quá, cương không thắng nhu, phải dùng nhu thắng cương. Còn phụng hoàng quyền thì quá trống trải, dễ bị đối phương tấn công. Dùng bạch hạc, kim kê quyền thì quá yếu đuối. Vì vậy, tôi thường phối hợp giữa cái nhanh nhẹn của hầu quyền và cái uyển chuyển của linh miêu quyền để tạo ra tuyệt kỹ khi giao đấu với đối thủ”.
Cũng theo lão võ sư này, sau khi Lam Chinh gục ngã trên đài, giọng một chỉ huy quân Ngụy hô lớn: “Lên giết thằng Phi Long đi, để nó sống là tai họa”. Tiếng tên chỉ huy này vừa dứt, một đám lính Ngụy liền xông lên đài.
Ngay lập tức, Phi Long phá vòng vây tháo chạy khỏi đài. Lính Ngụy đuổi theo dùng súng bắn liên hồi nhưng ông may mắn không trúng đạn. Sau đó, ông trở về Đồng Phó an toàn.
|
Võ sư Phi Long trong một lần lên đài thời còn trẻ. |
Sau trận đánh này, võ sư Phi Long được mệnh danh là “rồng”, không chỉ nổi tiếng ở trong nước mà còn ở nước ngoài. Nghe danh tiếng, đại tá Nguyễn Văn Thoàn, Chủ tịch Tổng cục quyền thuật Việt Nam ở Sài Gòn lúc bấy giờ liền mời ông về làm huấn luyện viên. Ông được giao nhiệm vụ đi huấn luyện cho quân đội khi các đơn vị quân đội có nhu cầu.
Sau giải phóng năm 1975, ông được mời làm Chủ tịch Hội võ thuật Tây Sơn. Đến năm 1980, Sở Thể dục - Thể thao Bình Định mời ông về làm công tác tổ chức kiêm phong trào; đồng thời là huấn luyện viên đội tuyển võ dân tộc (đối kháng) của tỉnh, phụ trách huấn luyện võ thuật ở Bảo tàng Quang Trung (ở huyện Tây Sơn).
Lão võ sư đào hoa
Năm 1989, sau khi xin nghỉ công việc ở Sở Thể dục - Thể thao Bình Định, võ sư Phi Long cùng người vợ thứ 12 là bà Trần Thị Cần rời đất Đồng Phó lên lưng chừng đèo An Khê tạo lập trang trại và xây dựng mô hình để phát triển, truyền bá võ thuật mà mình đã theo đuổi.
Võ sư Phi Long hãnh diện khi nhắc đến 31 võ đường của môn phái Phi Long được xây dựng, phát triển bởi 31 học trò từ Bắc chí Nam với một niềm tự hào không che giấu. Ông nhắc đến học trò Cung Lê ở California (Mỹ), Phi Long Hải ở TP.Hồ Chí Minh, Phi Long Nghĩa ở TP.Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai)…
Từ đó đến nay, lão võ sư này vẫn âm thầm, miệt mài với sự nghiệp viết sách về võ lý, võ y, những mong vốn võ nghệ góp nhặt một đời sẽ giúp ích cho đời sau tiếp tục làm rạng danh võ cổ truyền Bình Định. Cho đến nay, ông đã hoàn thành, bổ sung vào nguồn tư liệu không mấy dồi dào của võ Bình Định các tập như Tây Sơn võ thuật đạo, Phương thuốc võ cổ truyền, Phương pháp sơ cấp cứu.
Cũng tại mảnh đất này, võ sư Phi Long chiêm nghiệm lại cuộc đời, đúc kết bằng những vần thơ, những câu thơ để vui với chính mình. Những bài thơ như Cuộc đời, Dòng đời, Thói đời, Hết đời, Rồng đen quy ẩn… được ông ghi chép và gìn giữ cẩn thận như một trang nhật ký của đời ông.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, bà Cần sống với võ sư Phi Long đến năm 2009 thì dọn về nhà dưới đèo An Khê để ở. Từ đó, võ sư Phi Long quy ẩn một mình nơi lưng chừng đèo này. “Đời tôi đã từng sống với 12 bà vợ, trong đó 9 bà có đăng ký giấy kết hôn đàng hoàng.
Bà nào cũng đoan trang, thùy mị, cũng có cái hay riêng. Nhưng có lẽ vì cá tính mạnh mẽ, niềm đam mê võ thuật quá lớn, nên cuối đời tôi lại thích sống một mình, để được bay lượn tự do như con rồng mà người ta đã đặt cho tôi”, lão võ sư đào hoa chia sẻ.
Theo lời võ sư Phi Long, dù không còn ở chung nhưng cái tình, cái nghĩa vợ chồng với những người vợ trước đây vẫn còn.
Ông cho biết: “Bà vợ cũ tên Hương của tôi đang sống ở phía bên kia đèo An Khê, bà Cần thì sống ở Đồng Phó, một bà đang ở Quy Nhơn. Sau khi ly hôn, họ vẫn ở vậy nên mỗi khi tôi giỗ cha mẹ hay tổ chức gì thì họ đều đến phụ giúp tôi. Chúng tôi vẫn còn giữ mối quan hệ thân thiết như trước đây”.
Lúc chúng tôi chia tay ra về, võ sư Phi Long hóm hỉnh gọi căn nhà nằm trên lưng chừng đèo An Khê mà ông đang ở là “nhà bên trời”. Một đời võ thành danh như thế, rồi lại được nhàn cư theo cái cách mình muốn như thế, không có nhiều võ sư được như ông - một “con rồng” quy ẩn.
|
Võ sư Phi Long và bà vợ thứ 12 Trần Thị Cần. |
Nói về tài võ của võ sư Phi Long, võ sư Kim Đình (ở tỉnh Bình Định) nhận xét: “Võ sư Phi Long hội tụ đủ 3 tố chất tối quan trọng của người theo nghiệp võ: nhanh, mạnh và bền. Những lợi thế này nhờ được rèn giũa miệt mài từ nhỏ mới có được.
Muốn thưởng ngoạn tài võ của Phi Long một cách trọn vẹn phải xem Phi Long đấu đài. Chất bay bướm, tài hoa cũng như tính bộc trực, chắc, thật của Phi Long thể hiện trong đòn đánh.
Ngoài ra trong giới võ sư Bình Định, có lẽ Phi Long có tướng mạo ra dáng con nhà võ nhất: cao tầm 1m80, dáng vóc quắc thước, cơ thể tiềm tàng một nội lực, sức mạnh vô song nhưng cử chỉ, động tác lại hết sức nhẹ nhàng, khoan thai”.