Linh khí Ngàn Nưa

Trên đỉnh Ngàn Nưa, nơi sơn cao mà có thủy tụ, nơi núi cao mà chợt có dải đất bằng, là nơi linh khí thiêng giữa Trời – Đất hội tụ, giao hòa. Nơi đây, năm 248, bà Triệu Thị Trinh cùng hàng ngàn tráng sĩ Cửu Chân mài gươm luyện võ, dấy binh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của giặc Ngô phương Bắc.

Trên đỉnh Ngàn Nưa, nơi sơn cao mà có thủy tụ, nơi núi cao mà chợt có dải đất bằng, là nơi linh khí thiêng giữa Trời – Đất hội tụ, giao hòa. Nơi đây, năm 248, bà Triệu Thị Trinh cùng hàng ngàn tráng sĩ Cửu Chân mài gươm luyện võ, dấy binh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của giặc Ngô phương Bắc.

Sách Đại Nam nhất thống chí (thời Nguyễn) chép: “Núi Nưa tên chữ là Na Sơn, mạch núi từ Phủ Thọ Xuân kéo đến chạy dài vài ba mươi dặm, đến địa phận Tổng Cổ Định thì nối vọi lên nhiều ngọn, ngọn cao nhất là núi Nưa”.

Huyệt đạo Quốc gia trên đỉnh Ngàn Nưa
Huyệt đạo Quốc gia trên đỉnh Ngàn Nưa

Theo tài liệu khoa học, quần thể Núi Nưa có mạch núi bắt nguồn từ dải Trường Sơn, vươn về phía biển theo hướng Tây Bắc - Đông Nam; có hàng ngàn ngọn núi lớn nhỏ trùng điệp phân bổ đều khắp trên diện tích 55 km2, soải dài 17 km; có đỉnh cao nhất 538 mét, xung quanh là 99 ngọn núi tựa như voi phục chầu về đỉnh; nên còn được người dân sở tại gọi là Ngàn Nưa.

Đất đai trên dải Ngàn Nưa phì nhiêu, màu mỡ, cây cối tốt tươi, thảm thực vật phong phú; đặc biệt trong rừng có nhiều loài nứa, trong đó có cây nứa tép mọc khắp nơi, được người dân địa phương xưa nay vẫn khai thác dùng để đan lát làm các vật dụng gia đình…

Xung quanh chân núi Ngàn Nưa là làng mạc mọc trên những cánh đồng trải dài bát ngát. Trên những cánh đồng ấy, người nông dân chỉ cần đào sâu từ một đến ba mét là có thể khai thác được quặng Cromit sa khoáng.

Năm 1958 – 1961, các chuyên gia địa chất Liên Xô (cũ), Đức và Trung Quốc đã khảo sát, thăm dò ước tính có tới 2,4 triệu tỷ tấn Cromit trong lòng đất và sa khoáng, được đánh giá là mỏ Cromit có trữ lượng lớn nhất Đông Nam Á.

Ngày nay, do điều chỉnh lại đơn vị hành chính nên dải Ngàn Nưa mênh mông nằm trên địa phận giáp ranh của các huyện Triệu Sơn, Nông Cống và Như Thanh thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Trong giai đoạn từ 2011 - 2015, UBND tỉnh Thanh Hóa sẽ đầu tư khoảng 1.400 tỷ đồng để bảo tồn và phát huy giá trị Di tích lịch sử danh lam thắng cảnh này gắn với phát triển du lịch.

Giai đoạn đầu, UBND tỉnh Thanh Hóa sẽ tiến hành bảo tồn, tu bổ các di tích gốc gồm Đền Nưa, cảnh quan núi Nưa và giếng Tiên, phục hồi lại các công trình đã có nhưng bị phá hủy trước đây như Đền Bà Triệu, chùa Phủ, chùa Ngoài, đền Tu Nưa, động Đào, khu Đá Bàn…

Tục rằng, xưa kia bộ phận người xứ Thanh cứ mùng 5 Tết là khởi hành đầu xuân lên rừng leo lên đỉnh núi Nưa đi lễ Chùa và viếng Đền Bà Triệu, rồi xuôi về Sầm Sơn viếng Đền Độc Cước. Với ngụ ý, họ lên rừng lễ Chùa đầu xuân để nhìn thấy núi cao mà rèn luyện, học tập ý chí của bà Triệu; xuống bể để nhìn thấy biển mênh mông mà trị bệnh tự đại.

Hiện tại, khu vực Núi Nưa – nơi được xem là có linh khí, Chùa Bà, đền Nưa và Am Tiên thuộc xã Tân Ninh (huyện Triệu Sơn) quản lý. Du khách muốn lên chiêm bái, thắng cảnh buộc phải men theo “Đường ông Huỳnh” dài khoảng 3,5 km để lên đỉnh núi.

Ông Lê Bật Huỳnh là người xã Tân Ninh, gia đình ông ở ngay dưới chân núi. Từ ngày 27/3/2009, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch có Quyết định công nhận Di tích lịch sử văn hóa danh lam thắng cảnh núi Nưa - địa điểm Bà Triệu Thị Trinh dấy binh khởi nghĩa (gồm Huyệt đạo Quốc gia, núi Nưa, đền Nưa và Am Tiên) là di tích, thắng cảnh cấp Quốc gia, du khách hành hương lên đỉnh Nưa lễ đền và chiêm bái nơi Huyệt đạo Quốc gia ngày càng đông, đông nhất là những ngày đầu xuân.

Trước nhu cầu tâm linh này, gia đình ông Huỳnh đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng tự mở rộng con đường (theo lối đường mòn người xưa lên đỉnh núi Nưa kiếm củi) vắt chon von lên Ngàn Nưa. Bây giờ, nếu trời không mưa khách hành hương ngoài việc đi xe máy có thể dùng ô tô (hoặc mua vé dịch vụ ô tô U – oát) chỉ mất chừng 20 phút là lên đến đỉnh Ngàn Nưa!

Trên đỉnh Núi này, nơi sơn cao mà có thủy tụ, nơi núi cao mà chợt có dải đất bằng, là nơi linh khí thiêng giữa Trời – Đất hội tụ, giao hòa. Nơi đây, năm 248, bà Triệu Thị Trinh cùng hàng ngàn tráng sĩ Cửu Chân mài gươm luyện võ, dấy binh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của giặc Ngô phương Bắc.

Truyền rằng, vùng núi Quân Yên lúc bấy giờ có một con voi trắng một ngà rất hung dữ hay đến phá hoại mùa màng, mọi người đều kinh sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chày) rồi dũng cảm nhảy lên đầu voi và đã khuất phục được nó. Con voi trắng sau này được bà dùng để cưỡi mỗi khi ra trận.

Tượng voi trắng trên đỉnh núi
Tượng voi trắng trên đỉnh núi

Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”.

Đến độ 20 tuổi, gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt, bà giết đi rồi lên đỉnh Ngàn Nưa chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ cùng nuôi chí mài gươm luyện võ. Những ngày đầu tụ nghĩa, Bà Triệu đã ngầm cho đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao giả lời thần nhân mách bảo:

Có bà Triệu tướng,

Vâng lệnh Trời ta.

Trị voi một ngà,

Dựng cờ mở nước.

Lệnh truyền sau trước,

Theo gót Bà Vương.

Năm mậu Thìn (248), thấy cảnh giặc Đông Ngô (Trung Quốc) đàn áp nhân dân tàn ác, trăm họ lầm than khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh là Triệu Quốc Đạt khởi binh chống lại giặc Ngô.

Từ căn cứ Ngàn Nưa và Yên Định, hai anh em bà Triệu dẫn binh sĩ đánh chiếm quận lỵ Tư Phố ở hữu ngạn Sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là tên Tiết Kính Hàn.

Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân Bà Triệu chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng. Đang lúc ấy, người anh Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy Bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi một ngà và được tôn là Nhụy Kiều Tướng quân.

Đường lên Ngàn Nưa đã được mở rộng, ô tô vẫn thường xuyên chở du khách lên chiêm bái đền Bà Triệu và Huyệt đạo quốc gia
Đường lên Ngàn Nưa đã được mở rộng, ô tô vẫn thường xuyên chở du khách lên chiêm bái đền Bà Triệu và Huyệt đạo quốc gia

Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tên tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm thứ sử Giao Châu (An Nam hiệu uý), đem 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tên tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.

Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, ngày nay). Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.

Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, bà Triệu Thị Trinh chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi. Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến năm 265.

Trước sự việc trên, về sau, vua Lý nam Đế (tức Lý Bí) khen Bà Triệu là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là: "Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".

Ngày nay, ngoài miếu thờ Bà Triệu ở Núi Tùng còn có quần thể Di tích lịch sử văn hóa danh lam thắng cảnh núi Nưa - địa điểm Bà Triệu Thị Trinh dấy binh khởi nghĩa (gồm Huyệt đạo Quốc gia, đền Nưa, đền bà Triệu, Giếng tiên và Am Tiên) trên đỉnh Ngàn Nưa, được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch có Quyết định công nhận là di tích, thắng cảnh cấp Quốc gia năm 2009.

Bên cạnh các di tích trên, còn có các địa danh hiện diện trong truyện kỳ Người tiều phu núi Nưa của nhà văn Nguyễn Dữ thế kỷ XVI và còn có vết tích của ẩn sĩ Trần Tu hiệu Hoàng Mi tiên sinh gặp cuộc loạn đời Trần đến tu trên đỉnh núi, dưới chân núi còn có vết tích nhà ở của Nguyễn Thượng Hiền... Các ẩn sĩ này có rất nhiều thơ phú về nơi linh thiêng trên đỉnh Ngàn Nưa còn lưu truyền trong dân gian, trong đó có câu:

 “Na Sơn nhất phiến, nhất hộ thiên hạ biến!”, tạm dịch: “Một tiếng hô ở núi Nưa chuyển cả thiên hạ!”.

Trọng Anh

Đọc thêm