Lưu danh nghề truyền thống
Làng Nam Ô quay mặt về phía biển. Thiên nhiên ưu ái ban cho người dân bên chân núi Hải Vân một khung cảnh đẹp nên thơ với bãi cát trải dài, rừng cây xanh mọc trên triền đá cạnh tiếng sóng vỗ rì rào, êm dịu. Từ thuở sơ khai, người dân Nam Ô đã gắn với nghề biển. Mỗi hoàng hôn, ngư dân trai tráng giong thuyền ra khơi và mỗi bình minh, những người mẹ, người vợ và cả những đứa con thơ chân trần ngóng người thân trở về. Nghề nước mắm Nam Ô lừng danh cũng ra đời từ đó.
Hồi ký du hành đến Đàng Trong của C.Borri - một nhà truyền giáo dòng Tên người Ý vào đầu thế kỷ XVII từng ghi lại: “Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu vì họ rất ham thứ nước “sốt” gọi là balaciam làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt của ta. Nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn dựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở châu Âu người ta dự trữ rượu”.
Ngược dòng lịch sử, nước mắm Nam Ô từng được chọn làm đặc sản tiến vua. Không chỉ vậy, thứ hồn cốt của biển này còn vang danh khắp Đông Dương, có mặt trên bàn ăn và câu chuyện của người Pháp hàng trăm năm trước. Năm 1958, nhãn hiệu Hồng - Hương tại số nhà 42 quốc lộ số 1 - Nam Ô của nước mắm Nam Ô được Viện Pasteur cấp giấy phép công nhận là loại nước mắm nguyên chất và hảo hạng. Người Nam Ô kể rằng, khi xưa cùng với nhãn hiệu Hồng - Hương, còn có nhãn hiệu nước mắm Ký Châu nổi tiếng không kém.
Ông Bùi Văn Phong (80 tuổi), cháu ngoại đời thứ 3 của nhãn hiệu Hồng - Hương năm xưa tự hào: “Nghề làm nước mắm Nam Ô trải qua nhiều thăng trầm theo thời cuộc, nhưng thẳm sâu trong tim mỗi người dân xứ này là tình yêu nghề, yêu những giọt nước mắm mang hồn cốt của biển do chính đôi bàn tay mình làm ra”. Biến thiên thời cuộc làm cho nhãn hiệu nước mắm Hồng - Hương mất đi, ông Phong và người con trai kế nghiệp gầy dựng lại thương hiệu với tên gọi Hương Làng cổ.
Điều đáng nói, làng Nam Ô bên chân sóng ngày một đô thị hóa, cùng với đó là phải nhường không gian phía biển cho các dự án khác phát triển. Thế nhưng, người Nam Ô trước nhiều khó khăn vẫn quyết giữ nghề.
Nghệ nhân Trần Ngọc Vinh, Chủ tịch Hội làng nghề nước mắm truyền thống Nam Ô cho biết, làng nghề nước mắm Nam Ô hiện có 92 hộ dân làm nghề nước mắm, trong đó có 62 hộ tham gia Hội làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô với 10 cơ sở sản xuất quy mô lớn, 17 cơ sở có nhãn hiệu riêng… Dù qua bao thăng trầm, ngày nay mỗi gia đình vẫn giữ hồn cốt xưa trong công thức làm nước mắm của mình với phương châm 3 không: Không hóa chất, không chất bảo quản và không chất tạo màu, tạo mùi. Khách hàng mua nước mắm Nam Ô không chỉ trong mà còn có cả ở nước ngoài. Đây là niềm tự hào đồng thời cũng là động lực để người Nam Ô bền bỉ theo đuổi công việc.
Nâng tầm thương hiệu
Nhắc đến Nam Ô là gợi nhớ về vùng đất cửa Nam bên chân đèo Hải Vân hùng vĩ, nơi dừng chân của bao nghĩa sĩ trên hành trình mở mang bờ cõi. Nam Ô ngày nay vẫn còn lưu lại dấu tích Công chúa Huyền Trân dừng chân và nhiều lăng miếu, giếng cổ có bề dày lịch sử văn hóa có giá trị.
Năm 2020, UBND TP Đà Nẵng phê duyệt Đề án “Bảo tồn làng nghề nước mắm Nam Ô gắn với phát triển du lịch TP Đà Nẵng” với mục tiêu đưa sản phẩm nước mắm Nam Ô trở thành sản phẩm du lịch, tăng thu nhập cho người làm nước mắm và xây dựng làng nghề trở thành điểm du lịch của thành phố. Nhiều hộ dân làm nước mắm bắt đầu mở thêm hướng mới như đón khách du lịch, học sinh, sinh viên tham quan, trải nghiệm.
Cơ sở Hương Làng cổ là một trong những cơ sở đi tiên phong trong việc vừa làm nước mắm, vừa phát triển du lịch cộng đồng. Anh Bùi Thanh Phú, chủ xưởng sản xuất chia sẻ: “Việc mở hướng du lịch cộng đồng giúp tiếng tăm của nước mắm Nam Ô đi xa hơn, nhờ đó, sản lượng bán ra hàng năm tăng cao hơn so với trước. Hương làng cổ cũng thường xuyên đón những em học sinh, sinh viên đến trải nghiệm thực tế. Tôi mong rằng, qua những buổi thực tế như thế sẽ vun bồi lên trong các em tình yêu và niềm tự hào về nghề truyền thống của quê hương”. Gần đây, anh Phú còn kiêm thêm dịch vụ ẩm thực liên quan đến nước mắm Nam Ô dành cho du khách.
Anh Arman - một du khách đến từ Đức hồ hởi: “Tôi rất ấn tượng với khung cảnh làng chài Nam Ô. Ở đây, tôi và các bạn vừa được ngắm biển, trải nghiệm nghề làm nước mắm, vừa được thưởng thức bánh cuốn thịt heo chấm nước mắm ngon và uống ly cafe mắm thơm lừng đặc trưng. Đây là một điểm rất thú vị và đáng giá mà tôi từng được trải nghiệm”.
Ngoài những buổi tham quan, học tập, trải nghiệm thực tế làng nghề, đích thân nghệ nhân Trần Ngọc Vinh còn hướng dẫn, kể về lịch sử truyền thống của làng Nam Ô cho du khách được biết sâu hơn. Ông mong tên tuổi nước mắm Nam Ô đi xa hơn và được nhớ lâu hơn không chỉ vì nó là một thứ gia vị trên bàn ăn mỗi gia đình mà còn vì niềm tự hào của những người dân Nam Ô làm ra nó. “Người Nam Ô hôm nay vẫn luôn tự hào về những gì cha ông mình đã sáng tạo, chắt chiu từ con cá cơm than và hạt muối Sa Huỳnh, Cà Ná để chiết tinh thành giọt nước mắm đặc sánh, thơm lừng, đậm vị. Việc được xác lập chỉ dẫn bảo hộ địa lý thêm một lần nâng tầm đặc sản nước mắm Nam Ô, góp phần vào hành trình giữ nghề và phát triển nghề bền vững”, ông Vinh bộc bạch.
Nước mắm Nam Ô được Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể cho Hội làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô năm 2009 và gia hạn vào năm 2018. Năm 2017, sản phẩm này được cấp Giấy chứng nhận “Đạt thương hiệu sản phẩm nổi tiếng” do Ban Tổ chức xây dựng quảng bá thương hiệu và sản phẩm nông nghiệp Việt Nam công nhận. Năm 2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có quyết định công nhận nghề nước mắm Nam Ô là di sản phi vật thể quốc gia.
Nguyên liệu làm nước mắm Nam Ô là từ cá cơm than, đánh bắt theo 2 luồng cá từ phía Bắc vào tháng ba âm lịch và từ phía Nam ra vào tháng bảy âm lịch; chum để muối cá có thể được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau như gỗ, sành sứ,...; muối được dùng để ướp cá thường là muối được lấy từ biển Sa Huỳnh hay Cà Ná. Nước mắm Nam Ô được làm theo phương thức đánh, quậy, gài, nén với công thức truyền thống là cá cơm than tươi kết hợp với muối theo liều lượng 10 cá/4 muối, muối và cá được trộn đều trước khi đưa vào ủ; khi chum đầy thì dùng vỉ tre chèn cá xuống, sau đó gài miệng chum cho thật kín và để chum ở nơi khô ráo và hoàn toàn kín gió; sau 12 tháng, khi cá bắt đầu chín rục thành mắm thì mang ra lọc. Để có được những giọt nước mắm thơm tinh khiết, không lẫn xác cá và có màu cánh gián người dân dùng nhiều lớp vải lót trong phễu tre to và để cho từng giọt mắm nhỏ xuống.