Ông đặc biệt không chỉ bởi là nhà văn duy nhất cho đến nay được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, mà bởi ông là thương binh hạng nặng 1/4, mang trên mình tới 14 vết thương, ba mảnh đạn còn găm trong sọ não. Thế nhưng, bằng nghị lực và trí lực phi thường, ông sống và sáng tác, tạo nên dấu ấn đậm nét trong nền văn học nước nhà. Ông thực sự là “người có trí mệnh” như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành cho ông.
“Chú khai thật đi”…
Tôi đã vài lần đến thăm nhà văn Sơn Tùng ở ngõ nhỏ của Khu tập thể Văn Chương cũ kỹ của Hà Nội, khi cuốn “Búp sen xanh” của ông tái bản kỷ lục vẫn bị làm lậu, vi phạm bản quyền. Ông nằm bất động trên chiếc giường cá nhân chật hẹp. Hơn 60 năm qua ông đã sống, lao động một cách phi thường.
Nhưng rồi, cơn tai biến gần 10 năm trước đã “quật ngã” nhà văn. Căn phòng ông ở vẫn vậy: Chật hẹp, cũ kỹ. Và từ căn phòng ấy, bao nhiêu năm qua từng đón tiếp biết bao nhiêu các nhà hoạt động chính trị, nhà ngoại giao, nhà văn hóa, các văn nghệ sỹ, nhà báo, những “tao nhân mặc khách” ở trong nước và nước ngoài.
Trên bức tường cũ kỹ vẫn những bức ảnh ghi dấu ấn lịch sử cuộc đời ông. Trên đó là bức ảnh anh nhà báo trẻ Sơn Tùng đứng cạnh Bác Hồ đang ghi ghi chép chép. Đấy là sân đình làng Lỗ Khê, Đông Anh sáng mồng Một Tết. Khi ấy cả nước đang học tập noi gương Hoa Xuân Tứ, một người “tàn nhưng không phế” do Sơn Tùng phát hiện và viết.
Hôm ấy Bác gặp lại Sơn Tùng, thân mật hỏi vui: “Này, chú viết gương Hoa Xuân Tứ tàn mà không phế chú bịa mấy chục phần trăm, khai thật với Bác đi!”. Sau này nhà văn kể lại, đó là lần cuối cùng ông được gặp Bác…
Cũng trên vách tường nhà, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang thân thiết ôm lấy nhà văn. Đó là lần Thủ tướng sau khi đọc “Búp sen xanh”, biết được hoàn cảnh khó khăn của nhà văn đã mời ông đến cùng ăn cơm, chuyện trò. Còn bên cạnh là ảnh nhà văn trong vòng tay ôm siết thân thiết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngay bên cạnh đó là tấm bằng Anh hùng Lao động của nhà văn do Nhà nước phong tặng ngày 14/7/2011.
Nhà văn, người lính Sơn Tùng, sinh năm 1928, tại làng Hoa Lý (nay là Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An) - một vùng đất ngay bên bờ biển, nơi người dân chài lấy thuyền làm nôi và tiếng sóng vỗ bờ làm lời ru của mẹ. Chính cái mênh mông, phóng khoáng của biển cả đã hun đúc nên khí phách phóng túng pha chút ngang tàng của Sơn Tùng.
Năm 1944, ở tuổi 16 tràn đầy nhiệt huyết, Sơn Tùng tham gia hoạt động trong phong trào thanh niên ở địa phương hòa vào dòng chảy của cơn lốc cách mạng. Những năm tháng sục sôi cách mạng ấy, ông được gặp bà Nguyễn Thị Thanh (chị ruột Bác Hồ) và ý thức việc sưu tầm tư liệu về Bác. Sau khi Hà Nội giải phóng, Sơn Tùng vào học tại Trường Đại học Nhân dân và sau đó trở thành cán bộ tuyên truyền của Đảng.
|
Nhà văn Sơn Tùng. |
Năm 1961, ông về viết cho Báo Nông nghiệp và từ cuối năm 1962 là phóng viên của Báo Tiền phong. Năm 1967, ông được điều vào Nam thành lập và phụ trách tờ Thanh niên giải phóng. Năm 1971, ông bị thương nặng và rời chiến trường miền Nam mang trên mình 80% thương tật. Điều ông tiếc nuối nhất là chưa tìm gặp được bà Lê Thị Huệ, người con gái sau này là hình mẫu trong phim “Từ Bến Nhà Rồng” do ông chuyển thể và viết kịch bản từ tác phẩm “Búp sen xanh”…
“Búp sen xanh” và hành trình… 40 năm
Tác phẩm ghi dấu ấn nhất của Sơn Tùng, cho đến nay, vẫn là “Búp sen xanh”. Đây cũng là công trình mà ông bỏ ra nhiều thời gian và công sức nhất, bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1980. Bằng những chuyến đi không biết mệt mỏi, những cuộc tìm kiếm kiên trì, cuối cùng, ông đã gặp được bà Lê Thị Huệ. Để rồi từ những câu chuyện với bà Huệ ở tuổi 80, ông đã tái dựng lại một trong những quãng đời gian khó nhưng đẹp đẽ và thơ mộng nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phát hiện của Sơn Tùng đã mở ra một bước ngoặt, một cách tiếp cận hoàn toàn mới tới cuộc đời và sự nghiệp của Bác. Tháng 3/1982 “Búp sen xanh” với 30.200 bản ra đời đã gây một tiếng vang lớn. Gần 40 năm kể từ ngày ra mắt (1982), với không ít những thăng trầm, đến nay tiểu thuyết “Búp sen xanh” liên tục được tái bản, một điều hiếm thấy nếu không muốn nói là duy nhất trong đời sống văn học Việt Nam.
“Búp sen xanh” viết về thời thơ ấu và những năm đầu tuổi 20 của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong độ dài khoảng 300 trang, được nhà văn chia làm 3 chương: “Thời thơ ấu”, “Thời niên thiếu” và “Tuổi hai mươi”.
Những biến thiên của lịch sử, của gia đình nội, ngoại hai bên và quá trình định hình nhân cách, ra đi tìm đường giải phóng dân tộc của vĩ nhân Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành trong khoảng 20 năm. Cuộc chia tay trên Bến Nhà Rồng ngày 5 tháng 6 năm 1911 giữa Út Huệ và Nguyễn Tất Thành, được tác giả kể lại bằng những trang văn xúc động.
Trong “Búp sen xanh”, tác giả cũng đưa người đọc về với làng quê xứ Nghệ những năm đầu thế kỷ 20, nơi ấy là làng Sen quê nội, làng Hoàng Trù quê ngoại của Bác, với những câu dân ca, bài vè, câu ví giặm.
Theo bước chân của Bác khi còn thơ ấu với tên gọi Nguyễn Sinh Côn, đến khi trở thành một người thanh niên với tên Nguyễn Tất Thành, người đọc lại biết đến kinh thành Huế cổ kính, dòng sông Hương lững lờ, với đình Dương Nổ, trường Pháp - Việt Đông Ba, trường Quốc học hay Bến Nhà Rồng, với tất cả những phong tục tập quán, lời ăn, tiếng nói mỗi một vùng được thể hiện một cách tự nhiên, chân thật và rung động, thấm thía. Nhà văn viết như chính mình đang ở những năm tháng đó, không gian đó…
Ông từng chia sẻ: Tôi nghĩ mọi tình cảm của tôi đều bắt đầu từ sự kính trọng. Nhưng nếu chỉ kính trọng và có nhiều tư liệu thì vẫn chưa đủ, mà phải thật sự yêu quý một tài năng, một nhân cách. Đã có nhiều đoạn tôi viết trong nước mắt, như đoạn Bác ở Huế. Đó là Tết Tân Sửu (1901), mẹ mất, cha đi vắng chỉ còn một mình cậu bé Côn với em nhỏ chưa đầy một tuổi... Nhiều người đọc đến đoạn này cũng đã rơi nước mắt.
Khi viết, tôi đã hình dung ra hình ảnh Bác Hồ còn nhỏ tuổi, đầy mơ ước như bao trẻ em khác, mơ áo mới, với tiếng pháo ngày Tết lại phải đi sau quan tài mẹ. Rồi hình ảnh Người ngồi bế em trước bàn thờ mẹ quạnh quẽ và đơn độc trong ba ngày Tết Tân Sửu. Ngay những người bạn của Bác ở Huế, khi kể lại cho tôi câu chuyện này cũng đã không cầm được nước mắt.
Ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám, tôi đã có ý thức thu thập tài liệu và ghi chép cẩn thận những câu chuyện liên quan đến cuộc đời Bác Hồ. Khi ấy, tôi công tác tại Tỉnh đoàn Nghệ An, tôi thường đến quê Bác nhiều lần, nhất là ở làng Hoàng Trù thường gọi là làng Chùa nơi khởi nguyên và thành tạo gia đình Bác để khai thác chuyện bà con tại đây.
Và tôi đã đến làng Sen gặp gỡ cụ Nguyễn Thị Thanh và cụ Nguyễn Sinh Khiêm, chị gái và anh ruột của Bác Hồ để tìm hiểu về gia thế và tuổi thơ của Người. Lúc ấy, tôi chưa có ý thức lấy tài liệu để viết sách, mà đơn giản là vì tuổi trẻ thích tìm tòi, khám phá và hơn hết là vì tình yêu, sự ngưỡng mộ đối với Bác.
Đến năm 1948, tôi mới có ý thức trong việc ghi chép các tư liệu về Bác tỉ mỉ hơn. Gặp bất cứ ai là người cùng thời với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, với Bác Hồ, quen biết bà Thanh, ông Khiêm, là tôi đều hỏi chuyện, ghi chép lại. Sau khi bị thương nặng tại chiến trường miền Nam (1971) phải ra Bắc điều dưỡng, tôi mới có thời gian để bắt tay vào thực hiện đề tài mà mình đã ấp ủ từ gần 30 năm trước.
Ngay khi miền Nam vừa giải phóng, tôi vội vã thu xếp một chuyến đi xuyên Việt, đến những nơi từng in dấu chân của Bác để sưu tầm tư liệu. Đó thực sự là cả một hành trình tươi nguyên trong ký ức để sau này tôi đưa vào “Búp sen xanh”.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi đọc xong “Búp sen xanh” đã mời nhà văn Sơn Tùng lên trò chuyện thân mật. Thủ tướng có hỏi về nhân vật út Huệ… Và chính Thủ tướng đích thân viết lời tựa cho “Búp sen xanh” khi tái bản lần thứ nhất.
Tuy nhiên, vì những lý do tế nhị, đầu năm 2005 lời tựa này mới được công bố. Trong lời tựa có đoạn: “Cuốn sách “Búp sen xanh” nêu lên một vấn đề: Ở đây tiểu thuyết và lịch sử có thể gặp nhau không? Vấn đề này các đồng chí hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và nói chung tất cả chúng ta cần suy nghĩ để có thái độ. Song ở đây cũng vậy, lời nói có trọng lượng rất lớn thuộc về người đọc, nghĩa là nhân dân”.
Và không thể không nhắc tới một người phụ nữ đời ông. Người phụ nữ ấy đã chấp nhận thôi làm y tá ở bệnh viện để về nhà làm hộ lý suốt đời cho ông. Bà vừa là thư ký riêng, vừa là người dìu ông vào Nam, ra Bắc đi sưu tầm tài liệu.
Giờ đây nhìn lại khối lượng tác phẩm văn học với khoảng 40 đầu sách, trong đó hơn 20 đầu sách viết về Bác Hồ, nhiều người khó có thể hình dung nổi là làm thế nào mà một nhà văn thương binh hạng 1/4 luôn luôn phải chống chọi với sự hành hạ của thương tật, nhất là khi trái nắng trở trời, trong hoàn cảnh sống hết sức eo hẹp, lại có thể làm được… Dù trước đó, ông được Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhã ý tặng nhà, nhưng ông đã từ chối…
Trở lại tác phẩm “Búp sen xanh”, tôi nhớ hồi đó mới học lớp 2, tôi đã đọc một lèo hết cuốn sách trong một buổi chiều! Và tôi cũng đã vừa đọc vừa rơi nước mắt như nhà văn Sơn Tùng đã chia sẻ! Còn nhớ, bài văn đầu tiên được điểm 10 năm lớp 2 viết về Bác. Sau bao năm tháng, tôi vẫn nhớ, điểm 10 ấy đẹp đẽ và hạnh phúc vô bờ với một đứa trẻ của hơn 30 năm trước…