Nhật ký 31 ngày ở bệnh viện tâm thần

(PLO) - Nhắc đến Bệnh viện Tâm thần, phần lớn mọi người đều nghĩ nơi đây toàn là những người dở hơi, điên khùng, ngập tràn những áng mây đen u ám của những con người sống trong sự bấn loạn, không bình thường… Nhưng với tôi,  31 ngày ở Bệnh viện Tâm thần Quy Nhơn (Bình Định) là 31 ngày bước ra từ “cõi điên” trở về… đầy ắp kỷ niệm buồn vui và chứa chan tình người!
Nhật ký 31 ngày ở bệnh viện tâm thần

Vô thế giới “người điên”…

Không chịu nổi trước cú sốc tinh thần bị mất con, tôi rơi vào trạng thái bi quan, bấn loạn, chỉ muốn tìm đến cái chết. Tiếp đến là những chuỗi ngày “chìm trong nước mắt” vì nỗi nhớ con da diết, sự giằn vặt bản thân; những cơn ác mộng thỉnh thoảng ùa về, sợ hãi, im lặng, khép mình, không muốn gặp gỡ, chuyện trò cùng ai. Cuộc sống của tôi dường như rơi vào bế tắc, tuyệt vọng…

Bản thân tôi cũng không nghĩ mình bị chứng “trầm cảm sau sinh” – một hội chứng của bệnh tâm thần khá phổ biến, nhất là trong nhịp sống hiện đại ngày nay. 

Sau nhiều lần cố gắng thuyết phục, cuối cùng gia đình cũng đưa tôi vào Bệnh viện Tâm thần để chẩn đoán, khám và điều trị. 

Cảm giác đầu tiên của tôi là sợ hãi – sợ cả “người điên” lẫn “người tỉnh”. Sợ “người điên” thì ít mà sợ “người tỉnh” thì nhiều. Bởi quan niệm kỳ thị người bị bệnh tâm thần vẫn ăn sâu cố hữu vào tâm thức của xã hội, nhất là ở những vùng thôn quê thì việc kỳ thị “người điên” là một điều không thể tránh khỏi.

Nhưng vào viện rồi tôi mới biết thì ra Bệnh viện Tâm thần cũng chia ra nhiều cấp độ: Bình thường, điên nhẹ và điên nặng. Cụ thể, lần lượt phân theo 3 khoa, gồm: Khoa 3 (dành cho những người mắc chứng mất ngủ, suy nhược thần kinh, rối loạn cảm xúc, trầm cảm  nhưng vẫn còn đủ khả năng làm chủ, kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình); Khoa 2 (dành cho những đối tượng bị bệnh tâm thần nhẹ, hoang tưởng…); Khoa 1 (đặc trị những đối tượng bị bệnh tâm thần phân liệt, mất kiểm soát về suy nghĩ và hành vi).

Sau khi khám, chẩn đoán, trả lời câu hỏi trắc nghiệm tâm lý và điện não, bác sỹ kết luận tôi bị bệnh trầm cảm sau sinh và cử một nhân viên y tế dẫn tôi về khu đặc trị chuyên Khoa 3, do bác sỹ Nam làm Trưởng khoa.

Tại đây, tôi đã chứng kiến bao mảnh đời éo le, dở khóc dở cười. Hầu hết những bệnh nhân ở đây đều trải qua những sang chấn, cú sốc tinh thần hoặc do áp lực cuộc sống, công việc, học hành hoặc bị tai nạn chấn thương ở đầu… trước khi bước vào “thế giới người điên”.

Ấn tượng nhất đó là cô bé Phượng (Khoa 3, vừa tròn 19 tuổi). Em được mệnh danh là “thiên sứ bệnh viện”. Nhìn dáng người nhỏ nhắn, linh hoạt, ít ai nghĩ một sinh viên Khoa Giáo dục Mầm non như em lại mắc chứng mất ngủ, đau đầu và bị mờ mắt trái, sau một lần tai nạn cầu thang. 

Dường như trong ý thức của em, việc giúp đỡ mọi người là niềm vui, là lý tưởng sống của em. Em có thể giúp đỡ mọi người mà không biết mệt mỏi, không phân biệt lạ quen, tuổi tác và không biết là người ấy có cần sự giúp đỡ của mình hay không? Phượng tâm sự với tôi: “Có lẽ vì em tốt quá nên nhiều người thường hay lợi dụng lòng tốt của em, chị à! Trong số ấy, có cả bạn bè của em. Biết thế nhưng em vẫn không thể thôi làm người tốt được”. 

Chuyện tình giữa “tỉnh” và “điên”

Khác với Khoa 3 chúng tôi được thoải mái tự do đi lại, ngoại trừ những giờ nhận thuốc do bác sỹ cấp phát lần lượt theo tên gọi và trực tiếp bệnh nhân nhận, không cho nhận thay (đó được xem là lệ bất thành văn, bất di bất dịch); Khoa 1, 2 có vẻ được canh phòng nghiêm ngặt, có cán bộ y tế trực 24/24, khóa cổng hẳn hoi, chỉ mở khi có người nhà đi cùng bệnh nhân (ở một số giờ quy định) hoặc có người đến thăm.

Kỷ niệm khó phai nhất ở nhà thương điên là những lần “trốn trại”. Chiều tối là lúc dễ ra ngoài vi vu nhất! Khoa 2, khoa 3 chúng tôi, tất cả gần chục người cứ ngang nhiên mặc áo bệnh nhân Bệnh viện Tâm thần đi tản bộ ở công viên Long Vân (gần ngã 3 Phú Tài, TP Quy Nhơn), mặc những ánh nhìn soi mói, những cử chỉ dòm ngó, bàn tán của mọi người về những kẻ tâm thần “xổng chuồng”. 

Khoa 3 chúng tôi ở đầy ắp những kỷ niệm và sự sẻ chia của tình người. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh của chị Hương (trạc 27, 28 tuổi, quê ở Hoài Nhơn), với đôi mắt lờ đờ vì mất ngủ, dáng người mảnh mai, dong dỏng cao, bản chất lương thiện nhưng lại quá “sùng đạo”. Nét nổi bật ở chị là thích ăn chay và sợ ăn mặn; chị không chịu ăn cơm hộp mà lại ăn món ăn do tự tay mình nấu hoặc tận mắt chứng kiến người nhà nấu thì chị mới an tâm. 

Và đâu đó vẫn có những “chuyện tình đẹp” giữa “người điên” và “người tỉnh”.  Tuy nhiên, việc “yêu đương” trong Bệnh viện tâm thần không được khuyến khích, bởi để kiểm soát, quản lý, đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và tránh những trường hợp đáng tiếc xảy ra, những nguy cơ rình rập thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ y tế bệnh viện phải tăng cường công tác tuyên truyền đến bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Đồng thời, tách biệt khu dành cho bệnh nhân nam và bệnh nhân nữ, quy định giờ giấc nghiêm ngặt, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra…

Tuy là “nhà thương điên” nhưng nơi đây được xem như “ngôi nhà chung” ấm áp tình thương mà những “người điên” chúng tôi luôn muốn trở về để ghé thăm và san sẻ khi đã may mắn khỏi bệnh... Đó là sự tận tâm phục vụ chu đáo của đội ngũ y, bác sỹ  bệnh viện. Là sự “sẻ cơm, nhường áo”, giãi bày, động viên an ủi giữa những bệnh nhân “điên” với nhau. Là những tấm lòng hảo tâm của những cá nhân, tập thể làm công việc thiện nguyện như: Bữa cơm, bữa cháo chay từ thiện, những ổ bánh mì, gói xôi, gói quà thăm hỏi, động viên… 

Cảm động hơn cả là hình ảnh cụ già bên mái nhà xập xệ, liêu xiêu cũ nát ở phía đối diện ngay trước cổng bệnh viện nhưng vẫn ngày ngày nấu nước sôi và cháo đậu đen từ thiện cho bệnh nhân Bệnh viện Tâm thần. Ông chia sẻ: “Việc làm của tôi tuy vẫn còn nhỏ bé nhưng phần nào giúp đỡ, an ủi bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Đây cũng là niềm vui bình dị ở tuổi xế chiều như tôi”.

Mạnh mẽ như cây xương rồng…

Những ai đã từng là bệnh nhân của Bệnh viện Tâm thần đều phải trải qua một quá trình trị liệu kiên trì và lâu dài. Bởi khác với những loại bệnh khác, bệnh lý tâm thần thường khởi nguyên từ vấn đề tâm lý và yếu tố di truyền.

Thuốc chỉ mang tính chất hỗ trợ, bổ trợ  cho quá trình điều trị; yếu tố mang tính chất quyết định và quan trọng hơn cả là nghị lực, ý chí chiến thắng bản thân và thái độ ân cần chăm sóc, động viên tư tưởng, tinh thần của người thân dành cho bệnh nhân. Chỉ cần có thái độ sống tích cực, lạc quan, tuân thủ đúng quá trình và thời gian trị liệu thì bệnh tình sẽ thuyên giảm hoặc khỏi hẳn.

Và tôi cũng là một trong số ít những bệnh nhân may mắn ấy! Sau 31 ngày điều trị tại bệnh viện, bệnh tình có chiều hướng thuyên giảm, giấc ngủ của tôi cũng sâu hơn, bắt đầu mở lòng, nói chuyện với mọi người xung quanh nhiều hơn, có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống này. Bác sỹ Nam đồng ý cho tôi xuất viện và cấp thuốc về nhà uống trong vòng một tháng sau xuống tái khám. 

Được sự giúp đỡ và tư vấn tận tình của bác sỹ tâm lý, bạn bè và người thân cùng với sự nỗ lực của bản thân, tôi đã vượt qua bệnh tật và tìm lại chính mình. Song có lẽ người có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đó chính là ông bà nội và mẹ tôi.

Ông bà nội đã nhắc mẹ dọn dẹp hết tất cả những gì liên quan hoặc gợi nhớ đến đứa con trai bé bỏng của tôi, không cho tôi ở nhà một mình mà thường xuyên xuống bầu bạn, tâm sự cùng tôi, dẫn tôi lên nhà nội để phụ bà trồng rau, đọc kinh, xem ti vi, nghe nhạc… và tìm mọi lời lẽ nhẹ nhàng, sâu sắc để động viên, an ủi tôi; hãy xem đó là số phận, đừng nên tự giằn vặt mình, rồi bệnh tình nặng, trở nên điên loạn sẽ làm khổ cha mẹ và người thân. 

Dần dà, tư tưởng tôi cũng đã lạc quan, thông thoáng hơn, không còn chìm đắm trong nỗi đau mà gắng gượng vươn lên. Tôi đã hoàn toàn bình phục và tiếp tục công việc viết lách yêu thích của mình. 

Mạnh mẽ như cây xương rồng bé nhỏ, oằn mình chống chọi với những thương đau, sóng gió của cuộc đời. Và rồi hạnh phúc nở hoa! Khi những con người bước ra từ thế giới “người điên” trở về; bước qua những mặc cảm, kỳ thị của xã hội để khẳng định sự tồn tại của mình, tái hòa nhập cộng đồng, tiếp tục cuộc sống giàu ý nghĩa của mình, sống hết mình với những đam mê, khát khao và niềm tin yêu cuộc sống. 

Đọc thêm