Tôi sinh ra ở một ngôi làng cổ mà ở đó có đủ đầy hình ảnh cũng như những nét đặc trưng nhất của một làng quê Bắc bộ, có cây đa, giếng nước, sân đình. Hơn thế nữa, làng tôi còn có cả một bến sông êm đềm với những con đò đưa đón khách sang sông, cùng tiếng gọi đò í ới mỗi buổi sớm mai hay hoàng hôn chạng vạng. Với tôi, những năm tháng ấu thơ sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha nơi xóm thôn nghèo khó có lẽ là dấu ấn không bao giờ có thể mờ phai.
Tôi còn nhớ, làng tôi có hình dài tựa như một con rồng, với cái đầu rồng thì hướng đầu về vạt bãi bồi ven sông, còn cái đuôi của con rồng kéo dài xa tít bên nương ngô mướt xanh. Chẳng vậy mà làng có tên Thăng Long, nghĩa là thế của rồng bay là thế!
Theo như các bậc tiền bối của làng kể lại thì cách đây mấy trăm năm, khi dân chài lưới trên sông thấy quãng đất bãi bồi phẳng phiu, màu mỡ đã dừng chân lập làng sinh sống. Mới đầu chỉ có một ít hộ dân, qua thời gian, số hộ dân cứ nhiều lên để rồi làng phình to, chiếm hết khoảng diện tích bãi bồi ven sông. Bến đò nằm ở đoạn giữa của làng, nơi ấy cũng có một cái chợ gọi là chợ Bến. Chợ họp cách ba ngày một phiên, là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa nông thổ sản của các làng trong vùng cũng như các làng ở bên kia sông mang sang.
Những ngày bình thường thì bến đò chỉ thưa thớt vài chuyến đưa đón khách qua sông, còn những hôm có phiên chợ thuyền qua lại tấp nập nhộn nhịp cả một khúc sông. Tôi cũng hay được mẹ cho đi theo ra chợ với nhiệm vụ giúp mẹ trông quang gánh ngoài cổng chợ, để mẹ mải lo bán mua. Mỗi khi mua bán hàng hóa xong, mẹ chẳng bao giờ quen mua cho tôi, khi thì mấy cái kẹo bột, lúc lại mấy cái bánh rán đường, và nhiều bữa là túi bỏng ngô nếp thơm phức...
Nói chung theo mẹ đi chợ làng bao giờ tôi cũng được ăn quà thỏa thích. Quà mẹ mua tôi ăn từ chợ, ăn trên đường, về tới tận nhà vẫn còn.
Nhịp sống trong ngôi làng tôi thuở ấy luôn thanh bình, êm ả và chỉ nhộn nhịp khi mùa thu hoạch ngô, khoai tới mà thôi. Người dân quê chỉ trông vào nguồn thu từ những bắp ngô, củ khoai nên cuộc sống đầy gian nan, vất vả. Nhà ai cũng phải căng mình để bươn chải và vượt khó. Nhà tôi cũng nghèo lắm, mọi nhà trong làng đều nghèo vậy, nên những bữa ăn chỉ quẩn quanh với cơm độn mà thôi, chứ chẳng mấy khi được ăn toàn cơm trắng.
Cuộc sống đang êm đềm trôi đi thì bước ngoặt khiến tôi phải rời xa nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đó là năm tôi vừa hết cấp 2, bố mẹ tôi quyết định đi xây dựng kinh tế mới ở Tây Nguyên, theo chính sách điều động giãn dân của Nhà nước. Làng tôi ngày ấy có tới cả vài chục hộ dân cùng đi kinh tế mới.
Chuyến đi có biết bao bùi ngùi nhớ thương cùng những dòng lệ tuôn trào giữa những người ra đi và những người ở lại. Với tôi, dẫu vẫn còn nhỏ nhưng cũng có vô vàn nỗi nhớ, từ nỗi nhớ bạn bè, trường lớp, thầy cô..., cho đến hình bóng của ngôi làng, của bến đò, của sự nhộn nhịp những hôm chợ làng vào phiên...
Khi tôi trưởng thành, cũng đã vài lần được trở về thăm quê. Làng quê đã quá đổi thay, đổi thay đến khác lạ, khiến tôi không còn có thể nhận ra hình hài của một làng quê xưa tôi từng sống và gắn bó. Đó là lý do khiến tôi bùi ngùi cảm xúc để nhớ về làng và tìm về những kỷ niệm của những ngày xa lắc chỉ còn trong ký ức...