Được phong Thái tử khi cha chưa làm vua
Được chọn vào ngôi vị Thái tử là người sẽ kế thừa ngôi báu sau này, nhưng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có một trường hợp phong làm Thái tử trong khi người cha chưa làm vua, đó là chuyện của Hồ Hán Thương.
Tháng 3 năm Mậu Dần (1398), Hồ Qúy Ly ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Án mới hơn 2 tuổi, rồi lại ép vua đi tu theo đạo Lão. Thái tử lên ngôi ngày 15/3 nhưng còn quá nhỏ nên sử sách sau này thường gọi là Trần Thiếu Đế; còn Hồ Qúy Ly chính là ông ngoại của vua Thiếu Đế, nắm toàn bộ quyền hành, tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt đại vương và năm Kỷ Mão (1399) xưng đế, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:
“Tháng 6, Quý Ly tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng đế, mặc áo màu bồ hoàng (màu vàng như nhị hoa xương bồ - TG), ở cung Nhân Thọ, ra vào theo lệ thiên tử, dùng 12 chiếc lọng vàng”.
Tháng 3 năm Canh Thìn (1400) Hồ Qúy Ly cướp ngôi Trần Thiếu Đế, lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, lập ra triều Hồ và lấy quốc hiệu là Đại Ngu. Thế nhưng trước đó, vào tháng giêng cùng năm, dù chưa lên ngai vàng nhưng Hồ Qúy Ly đã lập Hồ Hán Thương làm thái tử, định chọn người con thứ này nối nghiệp mình.
Mẹ là công chúa, con được truyền ngôi
Hồ Hán Thương (có sách chép là Hồ Hán Xương), còn tên khác là Hồ Hỏa, sinh năm nào không rõ, là con thứ của Hồ Quý Ly, thân mẫu là công chúa Huy Ninh, hiệu là Nhất Chi Mai (con gái vua Trần Minh Tông, và là em gái Trần Nghệ Tông).
Thông thường, ngôi vua được truyền cho con trưởng, nhưng dù là con thứ, Hồ Hán Thương vẫn được chọn bởi mẹ ông chúa Huy Ninh nhà Trần. Hồ Qúy Ly biết rằng chuyện thoán đoạt ngôi vị sẽ là cái cớ để triều Minh ở phương Bắc tìm cách can thiệp vào nội tình nước Nam, để Hồ Hán Thương với danh nghĩa cháu ngoại nhà Trần nối nghiệp sẽ dễ biện bạch hơn trong đối sách ngoại giao.
Chính sử viết, sau khi nhường ngôi cho con vào cuối tháng 12 năm Canh Thìn (1400), Hồ Qúy Ly “sai sứ sang báo nhà Minh, nói rằng họ Trần đã tuyệt tự, Hán Thương là cháu ngoại Minh Tông, tạm trông coi việc nước” (Đại Việt sử ký toàn thư). Sách Đại Việt sử ký tiền biên cũng dẫn lời bình của sử thần Ngô Thì Sĩ về chuyện này như sau: “Qúy Ly cướp ngôi chưa được một năm đã truyền ngay cho Hán Thương, để tiện đặt lời nói với nhà Minh”.
Sách Việt sử tiêu án chép rõ hơn:”Qúy Ly giao hết ngôi vua cho Hán Thương, tự xưng là Thượng hoàng, hai cha con cùng giữ chính quyền; sai sứ sang báo với nhà Minh, nói rằng họ Trần hết người rồi, Hán Thương là cháu ngoại vua Minh Tông quyền giữ việc nước.
Vua Minh sai sứ sang hỏi các kỳ mục nước ta xem con cháu nhà Trần còn hay không? Người trong nước lập Hán Thương lên là sự thật hay dối? Hán Thương liền cho người sang cống nhà Minh và xin phong vương, nhà Minh phong cho Hán Thương làm An Nam quốc vương”.
Chuyện huyền kỳ về những người con
Chính sử ghi chép rất ít về vợ con Hồ Hán Thương, chỉ biết rằng vợ cả của vua là Hiến Gia hoàng hậu Trần Thị Hiến, các con có Hồ Nhuế (được phong Thái tử), Hồ Lỗ, Hồ Phạm, Hồ Ngũ Lang.
Tại làng An Phú (tên Nôm là làng Đó) ở xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình nay vẫn bảo lưu được một nghi lễ truyền thống là lệ chiềng rối với những đầu người sơn son thiếp vàng, chỉ được mang ra trong ngày lễ gọi là giỗ rối, chiềng rối diễn ra vào mùng 6 tháng 4 âm lịch hàng năm.
Truyền rằng Hoàng hậu của vua Hồ Hán Thương sinh được một bọc con, đầu tròn lông lốc, không có chân tay. Bài giáo rối làng An Phú có câu rằng:
Vua Hồ Hán Thương,
Trị vì thiên hạ.
Mong cho bệ cả,
Con nối cha truyền.
Cầu lạy Hoàng thiên,
Sớm sinh quý tử.
Việc lành hóa dữ,
Hoàng hậu mang thai.
Đủ một ngàn ngày,
Sinh con một bọc.
Đầu trọc long lóc,
Chẳng có chân tay.
Sự lạ nhường này,
Cổ kim chẳng thấy.
Vua cho là quái thai, sai vứt xuống sông, bọc thai đó trôi đến bến sông làng An Phú thì dừng lại. Dân làng được thần báo mộng, kéo nhau ra thấy trên cây cổ thụ có một lá cờ ghi rõ sự tích bọc thai và lời ủy thác nếu nơi nào vớt được bọc thai này thì phải khắc tượng để thờ.
Hoàng đế ban chiếu chỉ (Hình minh họa ) |
Từ đó làng An Phú khắc 8 tượng đầu rối (6 nam, 2 nữ) để thờ và hàng năm đều làm lễ tế; khi tế xong có biểu diễn rối; một người gọi là giáo trò đứng đọc lời giáo rối; trong tiếng trống, thanh la rộn rã, 8 người điều khiển đầu rối nhô lên hạ xuống, quay trái quay phải, nhìn ngang ngó dọc… Đây là nghi thức cầu may, bởi thế trong đoạn kết của bài giáo rối có câu:
Theo lệ hàng năm,
Đèn nhang cúng rối.
Trống, chiêng vang dội,
Múa hát xênh xang.
Cầu chúc xóm làng,
An khang thịnh vượng.
Cũng theo nội dung bài giáo rối, những người con kỳ lạ của vua Hồ Hán Thương được đặt tên là Hồ Qúy, Hồ Vị, Hồ Hoan, Hồ Sĩ, Hồ Ban, Hồ Báo và 2 người con gái tên là Hồ Lan, Hồ Điệp.
Không mời được ẩn sĩ giúp vương triều
Vì cho rằng nhà Hồ được lập là do làm việc thoán đoạt, cướp ngôi do đó nhiều danh sĩ đương thời tỏ thái độ bất hợp tác với vương triều mới, dù các vua nhà Hồ cũng chiêu hiền đãi sĩ. Câu chuyện Hồ Hán Thương đốt núi Na là minh chứng cho điều đó.
Núi Na ở xứ Thanh Hóa (nay thuộc xã Cổ Định, huyện Nông Cống, Thanh Hóa) xưa kia là một ngọn núi cao, nhiều cây cối. Tương truyền trong núi có một động dài, hẹp rất hiểm trở, là nơi sinh sống của một ẩn sĩ, tính tình vui vẻ, ai cũng quý mến nhưng hỏi đến tên họ, nhà cửa thì ông chỉ cười mà không trả lời.
Một năm, Hồ Hán Thương đi săn, tình cờ gặp ẩn sĩ ấy vừa đi vừa hát, nên vua đoán là một ẩn giả, không phải người thường, bèn sai một viên quan tên là Trương Công đuổi theo mời lại nhưng không kịp. Viên quan nọ đến được nơi ở của ẩn sĩ, truyền ý vua muốn mời ông ra giúp nước nhưng ẩn sĩ từ chối.
Thuyết phục nhiều lần không được, viên quan về tâu vua, Hồ Hán Thương vì muốn tuyển được nhân tài bèn sai viên quan kia đi thuyết phục lần nữa. Nhưng ông này vào tìm thì không thấy người đâu, chỉ thấy trên vách đá trong động đề hai câu thơ:
Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn,
Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu.
Nghĩa là:
Kỳ La cửa biển hồn thơ dứt,
Cao Vọng đầu non dạ khách buồn.
Ông lại ra kể lại, bấy giờ mọi người không hiểu ý hai câu là gì, chỉ thấy có vẻ hơi hướng trào phúng. Hồ Hán Thương cả giận sai đốt cháy cây cối trong núi, cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa.
Hậu vận mờ ảo trên đất khách
Cuối năm Bính Tuất (1406), quân Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ đã đem quân sang xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến do triều Hồ lãnh đạo thất bại, tháng 11 năm Đinh Hợi (1407), Thượng hoàng Hồ Qúy Ly bị quân Minh bắt được ở ghềnh Chẩy Chẩy (có sách ghi là bãi biển Chỉ Chỉ) gần cửa biển Kỳ La (nay thuộc Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh); còn vua Hồ Hán Thương bị bắt ở núi Cao Vọng; nhiều thân thuộc, quan lại nhà Hồ cũng sa vào tay giặc.
Khi sự việc xảy ra, người ta mới biết ý tiên đoán của hai câu thơ, Kỳ La còn được dân địa phương đọc chệch là Kỳ Lê có nghĩa là trói họ Lê, tại đó có núi Thiên Cầm có nghĩa là trời bắt và Cao Vọng cũng là nơi mà cha con Hồ Quý Ly bị bắt. Câu thơ đọc lên khiến người ta cứ có cảm nghĩ như đây là những câu sấm ký của người ẩn sĩ về số phận của các đế vương một triều đại.
Sau khi bị bắt, quân Minh giải Hồ Hán Thương cùng Thái thượng hoàng Hồ Qúy Ly và nhiều quan tướng về phương Bắc. Sử chép rằng vua Minh ra lệnh giết ông và tất cả quan tướng, trừ Hồ Qúy Ly, Hồ Nguyên Trừng và Thái tử Hồ Nhuế, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Chỉ tha cho con là Trừng, cháu là Nhuế. Sau, Quý Ly ở trong ngục được tha ra, bắt đi thú thủ ở Quảng Tây; Trừng vì lành nghề chế binh khí, dâng phép chế súng lên vua Minh, nên được tha ra để dùng”.
Như vậy Hồ Hán Thương bị giặc Minh giết hại tại nước của chúng nhưng không rõ là vào cuối năm Đinh Hợi (1407) hay đầu năm Mậu Tý (1048), thi hài ông được chôn cất ở đâu.
Hồ Hán Thương ở ngôi được 6 năm, trong thời làm vua ông sử dụng hai niên hiệu là Thiệu Thành (1401 – 1402) và Khai Đại (1403 – 1407). Trong sách Việt giám thông khảo tổng luận có viết: “Hồ Hán Thương nối ngôi soán đoạt, lạm chính hại dân, người Minh lấn vào cõi bờ mà không giữ được, xã tắc tan hoang, lồng lộng lưới trời, thưa mà không lọt. Than ôi! Lễ không gì lớn bằng phận, phận không gì bằng danh, danh phận là bờ đê của nhà nước, không thể không cẩn thận”.../.