Trong suốt 200 năm kiến lập và phát triển xứ Đàng Trong, chính quyền chúa Nguyễn đã định hướng cho mình đường lối hướng biển, đồng thời phát huy phương thức khai thác và quản lý nông nghiệp với một tư duy thực sự khai mở. Để giành lấy thế mạnh thương trường, chính quyền chúa Nguyễn đã liên tục dẹp bỏ các trở lực thương mại trong phạm vi quốc gia lẫn khu vực, quốc tế.
Tiến trình này di chuyển theo hướng từ Bắc xuống Nam cùng với cuộc chiến tranh xác lập chính thể, mở rộng đất đai của vương triều họ Nguyễn từ lúc Nguyễn Hoàng đặt chân lên đất Thuận Quảng đến trước nội chiến thời Tây Sơn. Ghi nhận từ sử sách, có thể kể ra một số vụ việc tiêu biểu.
Vụ Ô Lan tặc tại cửa Eo (1644)
Theo sử sách: “Bấy giờ giặc Ô Lan (Hà Lan) đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa (Phúc Lan) đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử (Phúc Tần) tức thì mật báo với Chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thuỷ quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử đốc thúc chiến thuyền của mình tiến thẳng ra (…)
Chiến thuyền trước sau lướt nhanh như bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía Đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết. Thế tử bèn thu quân về…”.
Diễn biến trên được sử gia Lê Quý Đôn xác định xảy ra năm Quý Mùi (1643) và tóm lược: “Con thứ hai (Phúc Lan) là Phúc Tần đem thuỷ quân đánh phá được mười chiếc tàu của giặc Ô Lan ở cửa Eo. Phúc Lan khen là dũng, bèn có ý dựng làm con nối nghiệp”.
Thực ra biến cố ở cửa Eo (Thuận An) là điểm nút của một chuỗi dài các tác nhân trong quan hệ giao thương giữa chính quyền chúa Nguyễn với Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) suốt từ năm 1613, có sự can dự của họ Trịnh Đàng Ngoài. Các chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan một mặt mở cửa mời gọi thương thuyền Hà Lan từ Batavia đến buôn bán, mặt khác tịch thu không hoàn trả hàng hoá và đại bác trục vớt từ các tàu bị đắm của VOC.
Ngược lại, VOC vừa quan hệ với Đàng Trong, vừa ngầm giúp chính quyền Đàng Ngoài, thậm chí còn tổ chức nhiều vụ bắt giết thường dân ven biển dọc phủ Hoài Nhơn đến Đà Nẵng làm áp lực đòi trao trả hàng hoá và thuỷ thủ với chính quyền chúa Nguyễn. Cuối cùng, VOC đã công khai đứng về phía Đàng Ngoài chống lại Đàng Trong bằng hành động quân sự.
Đoàn chiến thuyền của Hà Lan xuất phát từ Batavia chia làm hai cánh: cánh thứ nhất gồm 3 chiến thuyền có tên Wakendebode, Kievit, Meerman do Isaac Davids chỉ huy thẳng hướng ra Đàng Ngoài để đón và đi với chúa Trịnh Tráng, vua Lê cùng một binh đoàn nhiều ngàn quân; cánh thứ hai cũng 3 tàu, có tên Wojdenes, Waterhond, Vos do Baek chỉ huy trực chỉ hướng Thuận An.
Đoàn chiến thuyền quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Tần chỉ huy lập tức tổ chức vây đánh đội tàu do Baet dẫn đầu, khiến chúng hoảng loạn bỏ chạy. Trong tình thế cấp bách, đối phương đành tự phóng lửa đốt cháy chiếc tàu tiên phong do chính Baet chỉ huy, giải vây cho hạm đội trong tiếng súng rền vang lẫn lửa khói mù trời.
Tám năm sau, năm 1651 VOC chủ động dàn hoà và được chính chúa Nguyễn Phúc Tần đứng ra ký kết thương ước. Tuy nhiên, phải hơn một thế kỷ sau, năm 1754 các nhà buôn Hà Lan mới đặt chân trở lại xứ Đàng Trong Vụ Man An Liệt chiếm cứ đảo Côn Lôn (1702 – 1703).
“Giặc biển là người Man An Liệt (Anh) có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích Già Thi 5 người (…) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác”.
Côn Đảo thuộc chủ quyền chúa Nguyễn nằm ngoài khơi biển Đông, án ngự trên tuyến đường thương mại Ấn Độ – Trung Hoa nên là điểm dừng chân lý tưởng của các hạm thuyền quốc tế ngang qua khu vực. Công ty Đông Ấn của chính phủ Anh âm mưu thiết lập một trạm trung chuyển nhằm tập kết và phát tán hàng hoá hoặc giao nhận mệnh lệnh.
Sự kiện trên nằm trong một nỗ lực lớn của người Anh nhằm vào mục đích đó, song họ đã bị thất bại: “Trấn thủ Trấn Biên Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế trá hàng đảng An Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn tam ban tứ ban thì theo đường biển trốn đi. Phúc Phan nghe tin báo, tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp…”.
Tuy nhiên, cách giải thích của các tài liệu lại không trùng khớp nhau, thậm chí còn mâu thuẫn về nguyên nhân và thời điểm biến cố xảy ra. Phía người Anh cho biết Allan Catchpole, giám đốc thương điếm của công ty Đông Ấn Anh, có mang theo “một số người Maccassar (Mã Lai) được dùng làm lính và giúp dựng một công sự và đã ký với họ một hợp đồng ba năm”, và vì một lý do nào đó, ông này vào phút cuối đã không thực hiện hợp đồng, do đó những người Mã Lai “đầy căm thù và độc ác” đã giết gần hết số người Anh vào năm 1705.
Nhưng theo một văn bản khác, Nhật ký của công ty Đông Ấn buôn bán với Trung Hoa (1635 – 1834) thì một chiếc tàu tên là Catherine của công ty Anh tới Côn Đảo ngày 5/7/1704, giám đốc vẫn là Allan Catchpole mà vào thời điểm cuối tháng 7 này có tới 5 tàu Anh khác trên đường đi Trung Hoa đã ghé qua nhận mệnh lệnh.
Trong khi đó, chiến tích cùng công trạng của Trấn thủ dinh Trấn Biên Trương Phúc Phan mãi mãi được chúa Nguyễn vinh danh trên bảng vàng các bậc đại công thần khai quốc: “Giặc biển Man An Liệt là lũ Thuyền, Tô, Lỵ, Gia, Thi 5 người, xưng là 5 ban, cùng đồ đảng 200 người đóng ở đảo Côn Lôn lập đồn trại chứa của báu như núi. Bốn mặt đảo, chúng đều đặt súng lớn (…) Phan bèn triệu mộ 15 người Chà Và, mật sai trá hàng rồi nhắm ban đêm phóng hoả đốt giết (…) thu hết vàng lụa đem về nộp. Chúa hậu thưởng cho. Lúc Phan chết, được tặng phong hàm Thái bảo Phan Quốc công”.
Những vụ tập kích trấn Hà Tiên (1767 – 1771)
Trên điểm dừng chân cuối cùng của họ Nguyễn ở phương Nam đã liên tục bị khuấy động bởi một loạt các tranh chấp thương mại, cướp biển, cát cứ, chiếm đoạt đất đai của người Hoa lẫn Xiêm La, người Chà Và và Chân Lạp, từ Mã Lai, Sumatra đến Miến Điện.
Năm 1767, “người Triều Châu nước Thanh là Hoắc Nhiên rủ nhau họp đảng, lấy đảo Cổ Công là nơi hiểm trở hẻo lánh, dựa làm sào huyệt, thường ẩn hiện ở vùng duyên hải, đón cướp thuyền buôn, vây cánh ngày một nhiều, có ý ngầm nhòm ngó Hà Tiên”; năm 1770, “Phạm Lam họp đảng ở Hương Úc và Cần Vọt cùng với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và người Chân Lạp là Ốc nha Kê họp quân hơn 800 người và 15 chiếc thuyền, chia đường thuỷ bộ đánh úp Hà Tiên”.
Có thể nhận thấy chặng cuối con đường giao thương của chính quyền chúa Nguyễn là nơi quy tụ các lợi ích to lớn của giới thương nhân khu vực. Thủ đoạn vẫn như cũ, song mức độ tranh chấp càng về sau càng trở nên căng thẳng, khốc liệt.
Thêm một tác động cùng chiều, đúng vào thời điểm này tại Xiêm La, Trịnh Quốc Anh tự lập làm vua: “Quốc Anh là người Triều Châu nước Thanh (…) thừa lúc nước Xiêm trống trải suy yếu, bèn dấy quân đánh úp lấy đất, tự xưng làm quốc vương”. Chuyện đó đã kích thích lòng tự tôn của những gã lái buôn phiêu lưu, khiến chúng càng nóng lòng manh động, liều lĩnh như trong canh bạc cuối: được ăn cả, ngã về không!
Với tính chất là một thể chế thương mại, chính quyền chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây một đầu cầu giao dịch quan trọng, mệnh danh một Tiểu Quảng Châu và được bảo vệ một cách nghiêm ngặt bằng lực lượng bố phòng địa phương, dưới sự hỗ trợ tích cực của Gia Định. Từ năm 1714, Minh Vương phong Mạc Cửu làm Thống binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu.
Mạc Cửu chết, năm 1736 con là Mạc Thiên Tứ thế tập, được Ninh Vương “thăng làm Khâm sai Đô đốc Tung Đức hầu, ban cho 3 chiến thuyền long bài, miễn cho lệ thuế thuyền buôn, hàng năm ra nước ngoài mua đồ vật quý, đến Kinh dâng tiến”. Rõ ràng quyền lợi của chúa Nguyễn tại đây là không thể nhân nhượng, do đó các thế lực tranh chấp đều lần lượt bị đè bẹp, ngay cả quân Xiêm cũng bị đánh cho đại bại, vua Xiêm phải gửi thư xin cầu hoà.