Ông tôi là Đảng viên

Giờ đây, khi viết những dòng hồi tưởng này, đứa cháu bé nhỏ của ông ngày nào cũng đã trở thành đảng viên. Có nhiều lí do để tôi phấn đấu vào Đảng, nhưng có niềm nhiệt huyết như một ngọn lửa đã cháy trong tôi từ khi còn là một đứa trẻ. Đó chính là tấm gương đảng viên của ông tôi. Dù ông tôi không còn nữa, nhưng niềm vinh dự, tự hào và trách nhiệm cao cả của người đảng viên vẫn vẹn nguyên trong tôi

Ông tôi là đảng viên. Điều này tôi biết được từ lúc tôi mới lên năm tuổi. Khi đó, ông tôi bỗng dưng bị mù do một chứng bệnh. Tôi trở thành người dẫn đường trong những buổi đưa ông đi tham gia sinh hoạt chi bộ, đảng bộ. Ông không bỏ sót một cuộc họp nào. Những tin tức trong nước và quốc tế được ông thu thập qua radio là chiếc loa kim của hệ thống truyền thanh hữu tuyến và sau đó đem ra trao đổi, tranh luận sôi nổi với các đồng chí đảng viên khác trong các buổi sinh hoạt, chuyện trò.  

Hinh minh họa
Tôi dần biết về Đảng qua những câu chuyện kể của ông tôi. Ông được kết nạp Đảng năm 1949 khi đang làm nhân viên ngành hoả xa của liên khu 5 (công nhân ngành đường sắt ngày nay). Một công việc vất vả và cũng rất nguy hiểm nhưng ông luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Thời khắc được đứng dưới lá cờ Đảng để đọc lời thề của người đảng viên là thời khắc thật sự thiêng liêng, tự hào và ngập tràn hạnh phúc khi được chính thức trở thành chiến sỹ người cộng sản để chiến đấu cho lý tưởng, mục tiêu cao cả của Đảng. Với ông, Đảng thực sự thiêng liêng, cao quý nhưng cũng rất đỗi gần gũi, thân thương.
Ông nói với tôi rằng, mỗi đảng viên của đảng là một chiến sỹ cộng sản kiên cường, không khuất phục trước hiểm nguy, gian khó để chiến đấu cho độc lập tự do của dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. 
Ký ức về một thời tranh đấu sôi nổi hào hùng, đặc biệt từ khi trở thành đảng viên không bao giờ phai nhạt trong tâm trí ông tôi. Dù điều kiện còn nhiều khó khăn, dù nhiệm vụ có vất vả hiểm nguy đến mấy ông đều cố gắng vượt qua.
Ông luôn tự hào là một nhân chứng của những giây phút trọng đại của dân tộc ta từ khi có Đảng, đó là sự thiêng liêng và tự hào được làm công dân của một nước độc lập khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, là sự kiêu hùng với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, là đau thương tột cùng khi hay tin Bác mất hay hạnh phúc vỡ oà khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà. Và cũng như bao người Việt Nam khác, ông luôn giành tình cảm vô cùng kính yêu, trân trọng đối với vị cha già của dân tộc.
Nói về Bác Hồ, giọng ông tôi bỗng trở nên sôi nổi và ấm áp hẳn. Ông kể rằng, năm 1961, khi cùng với đồng bào Nghệ An được đón Bác Hồ về thăm quê, ông đã đi từ lúc còn sáng sớm đến sân vận động thành phố Vinh để được nhìn Bác gần hơn, rõ hơn, được nghe Bác căn dặn. Tôi đã được nghe ông kể rất nhiều câu chuyện về Bác Hồ từ khi còn ở Pháp đến lúc bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, những tháng ngày ở chiến khu Việt Bắc và khi ở cương vị Chủ tịch nước với một niềm tự hào. 
Ông tôi luôn giữ cho mình sống lối sống trong sáng, giản dị, chứa chan tình và một niềm tin sắt son với Đảng. Với những người xung quanh từ em nhỏ đến cụ già, từ thanh niên đến phụ nữ, ông đều giành tình cảm quý mến và hình như người nào đến với ông đều cảm thấy có một niềm vui. Ông nội tôi cũng là một tấm gương của tinh thần vượt khó. Những năm tháng cuối đời, mặc dù mắt bị mù, nhưng hầu như việc nào ông cũng cố gắng làm để không phải làm phiền người khác, từ vệ sinh cá nhân, giặt giũ quần áo, thái rau cho lợn đến việc trông giữ cháu.
Mấy anh em tôi đều được ông bồng bế, chăm bẵm, dạy bảo. Ông luôn động viên các con của mình và những người xung quanh phấn đấu để trở thành những người đảng viên. Các chú của tôi khi được kết nạp đảng đều viết thư về báo tin cho ông biết. Những lúc đấy, tôi nhìn ông cười rất tươi và khoé mắt rưng rưng.
Ông đọc thư cho tôi viết gửi vào để động viên các chú tiếp tục phấn đấu tốt. Thời gian ông chờ đợi để nhận Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cũng là những ngày ông lâm bệnh. Tôi nhận thấy sự mong ngóng của ông. Chỉ tiếc là khi đón nhận Huy hiệu, bệnh của ông tôi đã quá nặng. Ông không thể nói được nữa, cầm chặt chiếc Huy hiệu Đảng trong tay, ông áp lên ngực mình, từ 2 khoé mắt chảy ra 2 dòng lệ. Giây phút ấy, có lẽ ông cảm thấy rất hạnh phúc, toại nguyện.
Giờ đây, khi viết những dòng hồi tưởng này, đứa cháu bé nhỏ của ông ngày nào cũng đã trở thành đảng viên. Có nhiều lí do để tôi phấn đấu vào Đảng, nhưng có niềm nhiệt huyết như một ngọn lửa đã cháy trong tôi từ khi còn là một đứa trẻ. Đó chính là tấm gương đảng viên của ông tôi. Dù ông tôi không còn nữa, nhưng niềm vinh dự, tự hào và trách nhiệm cao cả của người đảng viên vẫn vẹn nguyên trong tôi.
Quang Vinh

Đọc thêm