Hành vi tình dục qua nền tảng trực tuyến ít bị coi là quấy rối tình dục
Với sự phát triển của Internet, cùng với mạng xã hội, thanh, thiếu niên đã trở thành công dân số từ rất sớm. Việt Nam hiện có khoảng 68 triệu người dùng Internet, trong đó hơn 1/3 ở độ tuổi 15-24. Nạn nhân của việc quấy rối trên mạng hầu hết là các cô gái trẻ. Họ bị các đối tượng xấu tiếp cận với cách thức khá giống nhau như: lân la bắt chuyện, làm quen, sau đó là lời nói thô tục và thậm chí gửi clip đồi truỵ, gọi điện “show hàng” như trường hợp của một cô gái tên N. sinh năm 1997 ở Hà Nội.
Cách thời điểm bị quấy rối tình dục trên mạng hai tháng, qua mạng xã hội Instagram, N. luôn nhận được những icon, lời chào đến từ một tài khoản ảo tên Tuan. Tuy nhiên, vì không quen nên N. không hồi đáp lại. Sau đó, tài khoản trên có gọi video cho N. nhiều lần. Thấy vậy, N. quyết định ấn nghe để xem rốt cuộc người này là ai cũng để khẳng định với họ rằng mình không quen biết gì. Nhưng ngay khi màn hình hiện lên, N. giật vì lúc này trên điện thoại cô hiện rõ hình ảnh, âm thanh của hành động thủ dâm của tài khoản tên Tuan. Những người bạn cùng phòng của N. đã nhanh chóng quay lại sự việc và nói với kẻ biến thái rằng sẽ đem clip đến trình báo công an. Nhưng hắn vẫn tiếp tục thực hiện hành vi quấy rối của mình cho đến khi N. chủ động tắt máy.
Kết quả điều tra của UNICEF năm 2016 cho thấy, 74% trẻ em và trẻ vị thành niên ở Việt Nam tin rằng các em có nguy cơ bị xâm hại tình dục hoặc bị lợi dụng trên mạng. Một thực trạng đáng lo ngại là số tuổi của trẻ em bị xâm hại qua mạng ngày càng trẻ hoá. Công nghệ thông tin phát triển cộng với việc toàn cầu hóa và những bất cập trong quản lý trang mạng xã hội đã khiến tình trạng xâm hại tình dục trẻ em trên mạng có chiều hướng gia tăng nhưng rất ít trường hợp được xử lý.
Theo Tổ chức Plan International, nhiều phụ nữ từ bỏ hoặc ngừng sử dụng một nền tảng truyền thông xã hội sau khi bị quấy rối. (Ảnh minh họa) |
Mới đây, tại buổi tọa đàm chia sẻ kết quả nghiên cứu về “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc - nhận thức, thực trạng và ứng phó” với sự hỗ trợ của Quỹ Hỗ trợ Cựu sinh viên Australia do Chương trình Aus4Skill quản lý nhằm thúc đẩy các nghiên cứu về vấn đề bình đẳng giới tại nơi làm việc, nhóm nghiên cứu về “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc - nhận thức, thực trạng và ứng phó” cho biết, có gần 70% số người được hỏi không coi hành động “email hoặc tin nhắn khiêu dâm lặp đi lặp lại, hoặc không phù hợp” là quấy rối tình dục.
Đại diện nhóm nghiên cứu, bà Nguyễn Thị Hương và bà Cao Thị Hồng Minh cho biết, qua khảo sát cho thấy, có tới 90% số người được hỏi cho rằng hành vi phổ biến được xác định là quấy rối tình dục là: đụng chạm về cơ thể một cách không mong muốn như ôm, hôn, quàng vai, chộp/chạm các bộ phận trên cơ thể; tiếp đến là cưỡng hiếp hoặc cố gắng cưỡng hiếp, hay hành hung, tấn công thân thể, tiếp xúc khiếm nhã, tấn công tình dục (82,4%)… Hành vi tình dục qua các nền tảng trực tuyến ít bị coi là quấy rối tình dục. Gần 70% số người được hỏi không coi hành động email hoặc tin nhắn khiêu dâm lặp đi lặp lại, hoặc không phù hợp là quấy rối tình dục. Bên cạnh đó, các bình luận, câu chuyện cười khêu gợi tình dục thường được coi là một phần gia vị vui hàng ngày, mà không coi đó là hành vi quấy rối tình dục.
Bên cạnh đó, một số phát hiện của nghiên cứu cho thấy, quấy rối tình dục có sự khác nhau ở các lĩnh vực việc làm. Cụ thể, nhân viên công đoàn và nhân viên nhà nước cho biết tỉ lệ bị quấy rối tình dục cao nhất lần lượt là 53% và 50%, còn công nhân là khoảng 7%. Các yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ khác nhau này là do đặc điểm nghề nghiệp chuyên môn cụ thể (ngoại thành, đi công tác), môi trường làm việc thực tế, nơi làm việc hỗn hợp giới tính và tình trạng việc làm. Tình trạng quấy rối trong các cơ quan nhà nước, tổ chức có đặc thù là văn phòng, các chuyến công tác. Còn nhóm công nhân thì nạn nhân chủ yếu bị quấy rối ở những khu vực nhà thuê, trên đường từ nhà tới chỗ làm…
Cần có chương trình giáo dục về văn hóa thúc đẩy nâng cao ý thức với pháp luật
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra biện pháp ứng phó của người bị quấy rối tình dục, trong đó đáng chú ý là chỉ có 20,2% số người bị quấy rối có phản ứng là “nói với người đó không được làm như vậy”; có 1,5% là nói với gia đình và bạn bè; 11% báo cho người có thẩm quyền. Còn lại phần lớn là giữ im lặng, lờ đi, không làm gì hết và tránh gặp mặt người đó.
Nguyên do việc không tố cáo hành vi quấy rối, bởi họ sợ rằng họ không có đủ sức mạnh và tự tin để đưa vấn đề ra công chúng và một trong những e ngại của họ là vấn đề có thể không được giải quyết; hoặc không muốn bị mang ra bàn tán hoặc đồn thổi trước công chúng. Những lời đàm tiếu này có thể biến nạn nhân từ một người vô tội thành một người có tội và một người gây rắc rối; thậm chí còn có tâm lý là tố cáo không được gì, có khi còn mất nhiều hơn…
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tuỳ theo tính chất, mức độ, hành vi quấy rồi tính dục qua mạng có thể xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Về xử phạt hành chính, căn cứ điểm g khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/NĐ-CP ngày 3/2/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện: phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Ngoài ra, hành vi quấy rối, làm phiền người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Làm nhục người khác (Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017) hoặc vu khống người khác (Điều 156 Bộ luật Hình sự). Theo đó, người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Phạm tội 2 lần trở lên; sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm…
Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thị Hương của nhóm nghiên cứu thì một điểm đáng lưu ý là không một ai viện dẫn đến các quy định của luật hoặc thể hiện việc họ biết các quy định của pháp luật khi thực hiện việc báo cáo hành vi quấy rối. Họ không hướng đến việc đòi hỏi công lý cho mình, mà viện dẫn các tiêu chí về mặt đạo đức và kỳ vọng vào các hành vi phù hợp tại nơi làm việc, nhằm không phá vỡ mối quan hệ hài hòa giữa đồng nghiệp hoặc lãnh đạo, giữ thể diện cho gia đình…
Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng, một số văn bản luật đã có quy định liên quan nhưng mới tập trung nhiều hơn vào khía cạnh pháp lý, các thuật ngữ pháp lý hơn là quan tâm và chưa giải quyết các vấn đề bất bình đẳng giới từ góc độ văn hóa, xã hội, đạo đức vốn được đóng khung trên các chuẩn mực xã hội, các định kiến giới.
Do đó, theo nhóm nghiên cứu cần có chương trình giáo dục về văn hóa nhằm thúc đẩy nâng cao ý thức với pháp luật; cần có quy định cụ thể về các hành vi quấy rối tình dục để tránh những lời bào chữa về văn hóa, ranh giới hành vi tình dục mong muốn và không mong muốn; cũng như có cơ chế trình báo vấn đề này rõ ràng hơn nữa.
Quấy rối tình dục qua mạng được định nghĩa là hành vi tình dục có tác động tiêu cực đối với nạn nhân trên bất kỳ nền tảng kỹ thuật số nào (dù công khai hay riêng tư). Đây được công nhận là một hình thức của bạo lực tình dục. Cụ thể hơn, kẻ lạm dụng chủ yếu thông qua các nền tảng mạng xã hội, sẽ tiếp cận, dụ dỗ, lôi kéo, thậm chí là ép buộc trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và lạm dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.
Tổ chức Plan International đấu tranh vì quyền lợi của trẻ em gái đã tiến hành khảo sát lấy ý kiến của 14.000 thiếu nữ và phụ nữ trẻ độ tuổi từ 15-25 tại 22 quốc gia, trong đó có Brazil, Ấn Độ, Nigeria, Tây Ban Nha, Thái Lan, Mỹ. Kết quả khảo sát cho thấy cứ 5 thiếu nữ và phụ nữ trẻ thì có 1 người từ bỏ hoặc ngừng sử dụng một nền tảng truyền thông xã hội sau khi bị quấy rối, trong đó một số người cho biết bị quấy rối từ khi mới 8 tuổi. Theo khảo sát, các vụ tấn công phổ biến nhất là trên Facebook với 39% thiếu nữ được hỏi cho biết đã bị quấy rối, tiếp đến là Instagram (23%), WhatsApp (14%), Snapchat (10%), Twitter (9%) và TikTok (6%). Gần 50% thiếu nữ cho biết họ bị đe dọa bạo lực thể chất hoặc tình dục. Khảo sát cũng cho thấy phần mục báo cáo trên các nền tảng mạng xã hội không hiệu quả trong việc ngăn chặn hành vi lạm dụng, bao gồm các tin nhắn quấy rối, ảnh khiêu dâm và khủng bố qua mạng.