Viện Kiểm sát cũng đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy bản án dân sự sơ thẩm số 15/2017/DSST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên. Theo Viện kiểm sát huyện Bắc Tân Uyên và Tòa án đã vi phạm nghiêm trọng tố tụng và tuyên xử thiếu khách quan.
Không mua được đất nhưng vẫn bị tòa tuyên mất cọc
Theo hồ sơ, bà Lý Tuyết Bình và bà Lê Thị Hương Lan (ngụ phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương) cùng thống nhất sang nhượng cho ông Lê Quang Vinh (sinh năm 1967, địa chỉ Khu phố Đông Chiêu, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương) các thửa đất số 49 tờ bản đồ 38 diện tích 6.226,9 m2; thửa 524 tờ bản đồ 38 diện tích 5.044,8 m2 cấp ngày 13/01/2015 cấp ngày 17/6/2014 do bà Lý Tuyết Bình đại diện đứng tên và thửa 523 tờ bản đồ 38 diện tích 5.111 m2 cấp ngày 13/01/2015 do bà Lê Thị Hương Lan đứng tên. Tổng diện tích là 16.426,7 m2 trong đó đất ở nông thôn là 400 m2 còn lại là đất trồng cây lâu năm tại xã Đất Cuốc, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương với giá chuyển nhượng là 25 tỷ đồng.
Để đảm bảo cho việc nhận chuyển nhượng này được thực hiện nên vào ngày 12/01/2017 ông Lê Quang Vinh đã làm giấy nhận tiền đặt cọc và đặt cọc số tiền là 5 tỷ đồng cho bà Lê Tuyết Bình. Số tiền còn lại của hợp đồng sẽ được thanh toán vào ngày 12/04/2017, đồng thời kèm theo đó là các cam kết chung: Thuế chuyển nhượng, trước bạ thuế thu nhập cá nhân của bên nào bên đó chịu theo quy định của nhà nước; Bên B (bên bán) chia tách nhiều thửa đất nhỏ và lăn tay công chứng cho bên A (bên mua) khi bên A có nhu cầu, chi phí bên A chịu theo quy định; Bên B đang chuyển mục đính thêm 200 m2 thổ cư, bên A đóng 100 triệu đồng phần còn lại bên B đóng; Bên A đã biết phần diện tích từ ngoài mặt đường DH411 vào 100m trở về sau (85m còn lại) là thuộc diện quy hoạch mở rộng KCN Đất Cuốc bên A đồng ý mua và không có tranh chấp về sau… Nếu bên B vì lý do nào khác ảnh hưởng đến việc mua bán hoặc không bán nữa không thực hiện hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng mà không được sự đồng ý của bên A, thì bên B có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền đã đặt cọc và phải nộp thêm cho bên A một khoản tiền phạt có giá trị bằng số tiền mà bên B đã nhận cọc của bên A.
Để thực hiện theo đúng thỏa thuận nên ngày 12/4/2017 ông Lê Quang Vinh, bà Lê Tuyết Bình và bà Lê Thị Hương Lan cùng đến phòng công chứng An Thịnh để ký hợp đồng chuyển nhượng và giao số tiền còn lại nhưng văn phòng công chứng An Thịnh từ chối không công chứng với lý do các thửa đất nằm trong quy hoạch mở rộng giai đoạn 2 và đã có văn bản ngăn chặn số 58/UBND-ĐC ngày 28/3/2017 của UBND xã Đất Cuốc về việc xem xét không thực hiện biến động đối với các thửa 523, 524 tờ bản đồ số 3.
Sau đó cả ông Lê Quang Vinh, bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan tiếp tục đến văn phòng công chứng số 2 nhưng cũng bị từ chối với lý do trên và không công chứng được. Việc sang nhượng này không thực hiện được do đó ông Lê Quang Vinh yêu cầu bà Lê Thị Tuyết Bình phải trả lại cho ông Vinh số tiền đã đặt cọc là 5 tỷ đồng.
Trước yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn không đồng ý và chứng minh rằng: Trong quá trình thực hiện giao dịch này nguyên đơn biết rất rõ bị đơn có một thửa có một phần nằm trong diện quy hoạch nhưng vẫn đồng ý sang nhượng và ký trong giấy nhận tiền đặt cọc với cam kết không khiếu nại gì về sau. Ngoài ra, việc UBND xã Đất Cuốc có ra công văn số 58/UBND-ĐC ngày 28/3/2017 về việc xem xét không thực hiện biến động đối với các thửa 523, 524 tờ bản đồ số 38 vì có dấu hiệu phân lô bán nền và bị đơn tách nhiều thửa là theo yêu cầu của nguyên đơn ông Lê Quang Vinh. Vì vậy, không đồng ý với yêu cầu này của ông Vinh.
VKS đã ra quyết định kháng nghị toàn bộ nội dung Bản án số 15/2017DSST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên theo tuyên đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quang Vinh về việc yêu cầu hủy giấy nhận tiền đặt cọc ngày 12/01/2017. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quang Vinh đối với việc rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 200 triệu đồng. Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Quang Vinh về việc buộc bà Lý Tuyết Bình và bà Lê Thị Hương Lan trả lại số tiền 4,8 tỷ đồng.
Vi phạm tố tụng và thiếu khách quan
Tuy nhiên theo Viện kiểm sát, việc Tòa án nhận định ông Lê Quang Vinh là người có lỗi trong thực hiện việc sang nhượng này để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là không khách quan làm ảnh hưởng đến quyền vời lợi ích của ông Lê Quang Vinh.
Cụ thể, Tòa án căn cứ giấy nhận tiền đặt cọc vào ngày 12/01/2017 trong đó có cam kết: “Bên B chia tách nhiều thửa đất nhỏ và lăn tay công chứng cho bên A khi bên A có nhu cầu, chi phí bên A chịu theo quy định “để nhận định ông Lê Quang Vinh là người có lỗi là chưa khách quan. Trong trường hợp này, giả sử nếu như ông Lê Quang Vinh có yêu cầu bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan thực hiện việc tách thửa này thì bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan trước khi thực hiện theo yêu cầu này của ông Lê Quang Vinh thì bà Lý Thị Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan phải đến các cơ quan có thẩm quyền để hỏi xem các thửa đất nêu trên có được tách thửa hay không, còn nếu tách thửa được thì tách được bao nhiêu thửa hay là diện tích tối thiểu để tách thửa nhằm đảm bảo cho việc sang nhượng được thực hiện. Bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan không đến các cơ quan có thẩm quyền để hỏi mà làm theo yêu cầu của ông Lê Quang Vinh thì việc này cũng có phần lỗi của bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan vì thực tế các thửa đất trên vẫn chưa sang tên cho ông Lê Quang Vinh, bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan vẫn là chủ sử dụng đồng thời là người ký tên trong các thủ tục xin tách thửa.
Vậy, Tòa án xác định lỗi của ông Lê Quang Vinh trong trường hợp này là chưa đảm bảo căn cứ. Trong trường hợp này lỗi là của cả ông Lê Quang Vinh và bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan. Thứ nhất lỗi ông Lê Quang Vinh là đã yêu cầu bà Lý Tuyết Bình, bà Lê Thị Hương Lan tách thửa nhưng không nói rõ tách bao nhiêu thửa và diện tích tối thiểu để tách thửa. Trong khi đó, bà Lý Tuyết Bình và bà Lê Thị Hương Lan khi sang nhượng đất cho ông Lê Quang Vinh tại sao không sang nguyên thửa để cho ông Lê Quang Vinh tự tách thửa mà lại tách thửa theo yêu cầu của ông Lê Quang Vinh mới sang nhượng đồng thời không tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn mà làm theo yêu cầu này của Lê Quang Vinh. Do đó, lỗi ở đây là cả hai bên.
Ngoài ra, Tòa nhận định giấy nhận tiền đặt cọc vào ngày 12/01/2017 có nội dung thỏa thuận “Bên B chia tách nhiều thửa đất nhỏ và lăn tay công chứng cho bên A khi bên B có nhu cầu, chi phí bên A chịu theo quy định”. Nội dung thỏa thuận này không bị vô hiệu nếu việc chia tách thành nhiều thửa đảm bảo được diện tích tối thiểu theo quy định của pháp luật. Việc nhận định này là chưa chính xác bởi vì hai bên có thỏa thuận tách thửa nhưng không thỏa thuận diện tích tối thiểu là bao nhiêu và việc thỏa thuận này có phù hợp với quy định của pháp luật không. Trong khi diện tích tối thiểu để tách thửa chưa cụ thể là trái với quy định của pháp luật.
Cũng theo Viện kiểm sát, về tố tụng: Thứ nhất: Về việc thụ lý đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn – ông Lê Quang Vinh, Tòa án nhận định cho rằng đơn khởi kiện thụ lý bổ sung nộp sau khi tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ nên đã áp dụng Điều 200 của bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định đối với quyền yêu cầu phản tố của bị đơn để đình chỉ khởi kiện bổ sung này của nguyên đơn – ông Lê Quang Vinh là không chính xác trong khi đó Điều 200 của luật Tố tụng dân sự 2015 quy định áp dụng đối với bị đơn thì tòa án lại vận dụng áp dụng cho nguyên đơn là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thứ hai: Việc Tòa án căn cứ Điều 358 của Bộ luật Dân sự 2005 xử lý trong trường hợp này là không đúng theo quy định. Thứ ba: Ngày 08/1/2017 Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 11/8/2017 và giao hồ sơ cho viện kiểm sát vào cùng ngày (có văn bản kèm theo).
Đến ngày 09/8/2017 Tòa án nhận được Công văn số 1743/UBND-NC ngày 09/8/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Bắc Tân Uyên phúc đáp văn bản số 49/TA-DS ngày 03/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên có nội dung: Hai thửa đất số 523, 524 tờ bản đồ số 38 tại xã Đất Cuốc được thực hiện biến động chuyển quyền sử dụng. Đồng thời ra thông báo số 98 ngày 10/8/2017 về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ cho các đương sự biết nhưng không thông báo Viện kiểm sát biết về việc thu thập được các chứng cứ này.
Tại nơi nhận thông báo Tòa án chỉ gửi cho đương sự biết là không đúng. Trong trường hợp này khi tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì nơi nhận phải có Viện kiểm sát. Ngày 11/8/2017 là ngày vụ án được xét xử nhưng Tòa án hoãn phiên tòa do đó có đương sự vắng mặt lần thứ 1 và cũng trong ngày 11/8/2017, Tòa án đã cho đương sự tiếp cận chứng cứ mới tuy nhiên lại không thông báo cho Viện kiểm sát biết đồng thời không công bố tại phiên tòa làm ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung vụ án dẫn đến việc Tòa án Tuyên án trái quan điểm giữa Viện kiểm sát và Tòa án là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.