Người con của buôn làng
Ông Sô Lây Tăng sinh ra và lớn lên ở làng Nú Vai, Xã Đăk Kroong, huyện Đăk Glei vào thời đất nước đang chiến tranh ác liệt, quê ông ngày ấy bị giặc đốt mất hai làng. Lớn lên ông được giác ngộ theo cách mạng, làm liên lạc. Cậu bé A Tăng (tên thưở nhỏ của ông) đóng khố, cởi trần ngày đêm không quản hiểm nguy vượt núi cao, suối sâu mang những thông tin nóng hổi phục vụ cách mạng.
Đã nhiều lần bị lộ, ông phải chui vào bụi le giữa rừng, ngụp xuống suối để trốn. Lại những đêm rét mướt, giữa núi rừng thâm u, bao gian nan khó nhọc nhưng được bộ đội tin giao, không việc nào ông thất bại. Chiến công thầm lặng của người chiến sĩ giao liên nhỏ tuổi đã góp phần vào chiến thắng của trận Đăk Pet mà ông chính là một trong ba vị chỉ huy của trận mở màn này.
Kon Tum giải phóng năm 1954. Khi ấy ông 17 tuổi. Trong đoàn quân đi bộ từ làng Nú Vai quê ông đến Kon Tum dự lễ chiến thắng. Dự lễ chiến thắng ở TX Kon Tum là ngày mà ông không bao giờ quên. Ông nói: "Biết bao sung sướng, tủi hờn, trông nhau mà tưởng như còn trong mơ" (Tố Hữu). Đúng là như trong một giấc mơ nhưng đó lại là sự thật. Ông kể, người ta bảo tôi cởi khố ra, đưa quần cho mặc để đi dự lễ.
Xong lễ, trên đường trở về làng Nú Vai nơi ông sinh ra, ông Phạm Nhớ (nguyên Phó Bí thư Tỉnh uỷ Kon Tum) có hỏi ông: "Tăng này, mày có muốn đi gặp Bok Hồ không?”. Lúc ấy, ông cũng chẳng hiểu Bok Hồ là ai nhưng trong ông đã cháy lên một niềm tin mãnh liệt vào cách mạng, vào những người đã dạy bảo, dìu dắt mình nên ông đồng ý ngay.
Từ một cậu bé đóng khố, không biết chữ, được đưa ra sống giữa Thủ đô. Ông đã học một mạch 16 năm, từ lớp một đến Đại học Y Hà Nội. Cầm tấm bằng Bác sĩ y khoa, theo đoàn quân Nam tiến vào Ban Dân y Khu 5. Không làm chuyên môn, đi phát rẫy, tăng gia sản xuất. Chỉ huy bảo: "Thằng này cái gì cũng làm được, giỏi đấy". Được kết nạp Đảng. Thế rồi ông lao đi chống sốt rét, dịch hạch, đào hố xí, vệ sinh làng bản cho dân và ngay năm ấy, ông giật luôn danh hiệu "Chiến sĩ thi đua", được bầu vào cấp uỷ, phụ trách thanh niên trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng trên núi rừng Tây Nguyên. Năm 1974 ông lên Kon Tum rồi lần lượt kinh qua: Uỷ viên Ban Dân y tỉnh; năm 1976; Phó ty Y tế; học Nguyễn Ái Quốc 2 năm về làm Trưởng ty; Phó Chủ tịch thường trực Uỷ ban, rồi Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum.
Người con của Đảng
Cuối năm 1991, Gia Lai- Kon Tum được chia tách thành hai tỉnh. Đại hội Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ X, tháng 12 năm 1991, ông Sô Lây Tăng - vị Chủ tịch tỉnh đã trở thành Bí thư Tỉnh uỷ trong chặng đường đầu tái lập tỉnh đầy cam go, đã được bầu với số phiếu tín nhiệm cao. Đại hội thành công, mọi người dân dường như cùng đón nhận trong tâm trạng phấn khởi và tin tưởng vào sự lựa chọn của Đảng. Trọng trách của ông với cương vị người đứng đầu của một tỉnh cực bắc Tây Nguyên còn nghèo nhất nhì cả nước.
Ông bảo: "Muốn có chủ trương đúng thì phải bám sát dân, phải đi cơ sở nhiều, lắng nghe dân nói, nghĩ cho cùng, mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng phải bắt nguồn từ cuộc sống". Mười năm làm Bí thư Tỉnh uỷ, mười lăm năm làm đại biểu Quốc hội (khóa VIII, IX, X ) gần tám năm tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Sô Lây Tăng - vị "Già làng Tây Nguyên" (theo cách gọi của nhiều người) này đã để lại cho lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum bao dấu son, giúp đẩy lùi nghèo đói, lan toả ý Đảng đến từng lòng dân. Công sức ấy thuộc về tập thể Đảng bộ tỉnh, nhưng phần của ông thật không nhỏ.
Nhớ lời Bác căn dặn khi còn là sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội khi Bác đến thăm là học xong về phục vụ bà con Tây Nguyên, tất cả vì cuộc sống của người dân nên trong những năm giữ trọng trách người đứng đầu tỉnh, cứ có thời gian là ông lại "nhảy" đi cơ sở, tìm về với dân ở các buôn làng xa.
Ông bảo: "Dân được gặp lãnh đạo cao nhất tỉnh là mừng lắm. Hơn nữa mình còn là đại biểu Quốc hội. Bà con nói cho mình nghe hết, chuyện cơm, áo, gạo, tiền, chuyện dân chủ, chính sách, sinh hoạt... ở quê. Tuy chưa thoả mãn hết được cho dân nhưng đã làm được khoảng 80% rồi, thế cũng là mừng. Nhưng mình vẫn còn nợ dân nhiều lắm...”.
Một lần về xã Đắk Krông, huyện vùng cao Đắk Glei, ông đến làng Đắk Vớt, thấy một gia đình người dân tộc Giẻ- Triêng nghèo quá, trời rét mà ông già cởi trần, đóng khố, ông đã tặng áo ấm của mình cho ông già nọ khiến mọi người đi cùng rất xúc động. Ông già nọ cảm kích trước tình cảm ấy đã ôm chầm lấy ông mà khóc và ông cũng không cầm được nước mắt...
Khi đương nhiệm Bí thư Tỉnh ủy, đi cơ sở vận động bà con dân tộc thiểu số cách làm ăn mới, ông phải làm mẫu cho dân, hướng dẫn phải cụ thể, nói phải dễ hiểu thì dân mới làm theo được. Hình ảnh người Bí thư Tỉnh uỷ, đại biểu Quốc hội Sô Lây Tăng sâu sát quần chúng, hoà cùng lời hát dân ca với bà con trong những đêm lửa ấm giữa rừng, sẵn sàng ngủ tại nhà rông “ba cùng” với dân. Khi đi cơ sở, lúc nào ông cũng mang theo túi thuốc cấp cứu, sẵn sàng chữa bệnh cho dân. Chẳng thế mà đã có nhiều chuyện kể ông đi đỡ đẻ, "mẹ tròn con vuông" là việc bình thường.
Ông Sô Lây Tăng có mối tình đầu tiên với bà Lâm Thị Thoan - người con gái ở quê lúa Thái Bình. Hai người quen nhau khi ông được ra Hà Nội học trường Y. Tốt nghiệp ra trường, họ cưới nhau và sau đó hai người hoà vào đoàn quân Nam tiến. Sau đó, người vợ yêu quý của ông đã qua đời vì sốt rét.
Sau này ông nên duyên với bà Y Sỏi- người vợ hiện tại của ông bây giờ, hai người có 3 người con hiện đều thành đạt. Bà Y Sỏi tâm sự: "Từ hồi lấy nhau đến giờ, vợ chồng chẳng bao giờ "cơm không lành, canh không ngọt" đâu nhé. Ông nhà tôi được cái dễ tính, vợ con, anh em đồng đội, đồng nghiệp ai cũng quý trọng". Bây giờ tuy đã bước sang tuổi tám mươi nhưng hễ có dịp ông vẫn đi thăm hỏi bà con đồng bào các dân tộc trong tỉnh.