Tuyệt kỹ tri thức canh tác hốc đá trên cao nguyên đá

(PLVN) - Tri thức canh tác hốc đá của cư dân Cao nguyên đá Hà Giang là một phương pháp canh tác nông nghiệp đặc trưng đã được đồng bào các dân tộc trên vùng cao nguyên đá Hà Giang áp dụng hàng nghìn năm, minh chứng cho sức sống vươn lên mãnh liệt, thích ứng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của bà con các dân tộc nơi đây.
Bà con các dân tộc tỉnh Hà Giang canh tác trên những mảnh nương lởm chởm đá tai mèo.
Bà con các dân tộc tỉnh Hà Giang canh tác trên những mảnh nương lởm chởm đá tai mèo.

Hà Giang vốn nổi tiếng với cao nguyên đá, cũng vì núi đá bao phủ nên đất canh tác tại đây rất ít, khí hậu đặc thù với mây mù quanh năm khiến cho việc trồng trọt càng trở nên rất vất vả. 

Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp trên vùng đất này gặp rất nhiều khó khăn, một mặt vì đá thì nhiều, đất lại có hạn, mặt khác nguồn nước tưới khó bảo đảm, chủ yếu chờ vào nước trời, cộng thêm do ở trên cao, xa khu dân cư nên việc chăm bón, thu hoạch không dễ dàng.

Đất đai hiếm, khí hậu khắc nghiệt, không phải loài cây nào cũng có thể tồn tại.Với những nương đá khô cằn và xương xẩu ấy, ngoài cây ngô và tam giác mạch ra thì hiếm loài cây nào có thể thích nghi và sinh trưởng mạnh như thế, nó cũng kiên cường, mãnh liệt như chính con người nơi đây.

Ươm mầm sự sống trên cao nguyên đá.
Ươm mầm sự sống trên cao nguyên đá. 

Do đó, đồng bào tại vùng cao nguyên khắc nghiệt này đã sáng tạo ra phương thức canh tác hốc đá. Di sản “Tri thức canh tác hốc đá của cư dân cao nguyên đá Hà Giang” được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận và đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia thuộc các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, theo Quyết định số 2684/QĐ-BVHTTDL vào ngày 25/8/2014.

Đây là phương thức dùng các phiến đá có sẵn với kích thước to nhỏ khác nhau để xếp thành những bờ rào đá ngăn sự xói mòn, đặc biệt là vào mùa mưa.

Công cụ lao động cũng đặc biệt bởi theo địa hình tạo ra: Cày, bừa, cuốc bướm. Cày sử dụng trên nương đá có thân cày chắc khỏe, lưỡi hình tam giác cân, nhỏ, dày, mũi hơi tù và nặng, chịu được lực khi va đập vào đá. Bừa là loại có tay ngang, người sử dụng cầm ấn xuống khi bừa.

Bừa chân dùng thông dụng hơn, hình chữ nhật, chắc chắn, với hai hàng răng, không có tay giữ, khi bừa, người điều khiển phải đứng lên bừa. Cuốc bướm có lưỡi mỏng, to bản, hình tam giác, cong ở phần chuôi, nhọn hai đầu, nên thuận lợi cho việc cào, vơ cỏ, vun gốc trên nương đá. 

Mùa vàng no ấm.
 Mùa vàng no ấm. 

Vào mùa xuân khi tiết trời ấm áp, bà con bắt đầu khai phá, rẫy cỏ, xếp đá làm hàng rào. Khai phá để làm nương là công việc tốn nhiều công sức và thời gian nhất đối với bà con vùng cao nguyên đá. Khi muốn tạo một mảnh nương mới, đồng bào thường chọn khu vực có nhiều ánh nắng, không quá dốc, tốt nhất là khu vực có nhiều cây mọc.

Sau đó, người dân phát cỏ và cây bụi theo nguyên tắc phát từ dưới lên. Công việc tiếp theo là nhặt đá xếp thành bờ ở sườn phía dưới của nương để giữ cho nương không bị sạt lở, xói mòn và rửa trôi màu. Nếu không đủ đá tại chỗ để xếp thành bờ, đồng bào thường tìm đá ở xung quanh xếp thêm lên.

Quá trình khai thác nương, xếp đá chủ yếu được tiến hành bằng phương pháp thủ công. Những đoạn nương dài và nhiều đất thì bờ đá được kè cao, chạy dọc theo sườn thấp của nương, với diện tích rộng thì có thể làm thành nương bậc thang.

Thông thường, để tận dụng tối đa đất canh tác, đồng bào không chỉ xếp đá ở những nơi có diện tích rộng, tại những sườn phía trên cao của nương, những chỗ nhiều đá không thể san bằng được, đồng bào thường kè thành những hốc đá kín, sau đó gùi thêm đất đổ vào đó.

Ngô được trồng thành từng cụm, mỗi gốc có 3 cây mọc chen nhau nhưng vẫn xanh tốt mỡ màng, che bớt đi màu xám xịt đặc trưng của đá tai mèo. Việc xếp bờ đá đòi hỏi nhiều công sức và kỹ thuật để xếp sao cho những phiến đá chồng lên nhau vừa khít, tạo sự chắc chắn và đất không bị xói mòn vào mùa mưa.

Vẻ đẹp diễm lệ của mùa xuân trên rẻo cao.
Vẻ đẹp diễm lệ của mùa xuân trên rẻo cao.  

Việc xếp đá tạo thành những bờ ngăn, thành những mảnh nương là công sức của nhiều thế hệ cộng đồng các dân tộc nơi đây, trải qua thời gian dài mới có được những mảnh nương xanh ngát, bàn ngành ngô và hoa màu như ngày nay.

Sau thời gian sinh trưởng, vào mùa thu chính là lúc đồng bào thu hoạch sản vật đã trồng. Khi những bắp ngô được xếp ngay ngắn trong và trên gác bếp cũng là lúc đồng bào chuẩn bị cho một mùa lễ hội cơm mới và cưới xin, làm nhà. Những hạt ngô ấy chính là nguồn năng lượng dồi dào cho những bước chân và sức sống mãnh liệt của người dân cao nguyên đá.

Vào bất cứ một gia đình nào trên cao nguyên đá cũng đều thấy ngô được chất đầy trên những gác nhà, gác thềm. Và bữa ăn hàng ngày với bà con chính là món mèn mén được chế biến từ hạt ngô để thay cơm gạo.

Nhờ sáng tạo ra hình thức thổ canh hốc đá và kĩ thuật trồng ngô trên nương đá, kĩ thuật xen canh các loại cây hoa màu, mà bà con nơi đây thích nghi được với điều kiện tự nhiên đặc biệt để ổn định cuộc sống. Đến nay, thổ canh hốc đá vẫn là phương thức chủ đạo trong hoạt động sản xuất của đồng bào vùng cao nguyên đá Hà Giang.Tri thức này thể hiện sức sống mạnh mẽ, tinh thần giữ đất, giữ làng, dù khó khăn đến đâu, các dân tộc vẫn tìm tòi sáng tạo, duy trì cuộc sống, từng bước vươn lên xoá đói, giảm nghèo. 

Đối với những người dân nơi đây, tri thức canh tác hốc đá chỉ đơn thuần là những kinh nghiệm, cách làm mà họ đúc rút ra hay được thế hệ cha ông truyền lại nhằm mục đích mưu sinh, bảo đảm cuộc sống hằng ngày nhưng vô hình chung họ đã tạo nên những giá trị văn hóa đặc sắc - Văn hóa ứng sử với môi trường sống và điều kiện tự nhiên.

Tri thức canh tác hốc đá không phải là của một nhóm người hay một dân tộc cụ thể mà chủ thể văn hóa là tất cả những người, cộng đồng người thuộc các dân tộc đang sinh sống, mưu sinh bằng tri thức canh tác nương đá thuộc địa bàn 4 huyện vùng cao núi đá phía bắc của tỉnh: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Họ là một cộng đồng lớn với thành phần bao gồm các dân tộc như: Lô Lô, Mông, Pu Péo, Cờ Lao, Hoa, Tày, Nùng và một số dân tộc ít người khác.

Đọc thêm