Luật sư của những luật sư
Tháng 3/1958, sau vài năm làm việc tại văn phòng công tố, Murray Guterson bước vào nghề luật sư bằng một công việc tại hãng luật Gordon Culp và William Dwyer. Cái tên Murray Guterson bắt đầu được khách hàng chú ý sau bài bào chữa dài hai giờ của vị luật sư mới 29 tuổi để cứu một nguời thợ giặt thảm bị buộc tội bắt cóc và giết người trong phiên toà kể trên.
Sinh năm 1929 trong một gia đình Do Thái di cư từ Nga sang Mỹ, sau khi tốt nghiệp trung học, Murray Guterson vào Đại học Washington và ông đã nỗ lực để rút ngắn chương chương trình và chỉ sau 2 năm, ở tuổi 19, đã trở thành một trong 258 sinh viên năm thứ nhất khoa luật.
Cuộc "thanh lọc” tiếp theo cũng không kém khắt khe: Chỉ chừng 90 sinh viên được lên năm thứ hai. Ra trường, Murray được nhận vào văn phòng công tố hạt King, dưới sự bảo trợ của Al Bianchi, một trong các phó công tố viên. Sếp của cả hai là một người rất kỷ luật. Bianchi nhớ lại rằng ông và Murray từng bị “đuổi việc tạm thời” vì tội đi kéo nhau đi uống cà phê trước giờ giải lao buổi sáng theo quy định.
Chuyển sang làm luật sư nhưng thu nhập của Murray chẳng khá hơn vì phần nhiều ông “bị” toà án chỉ định làm luật sư công – mãi cho đến năm 1969 Seattle mới có văn phòng luật sư công - với mức thu lao 25 USD/vụ kèm theo khoản bồi dưỡng 15 USD/ngày ngồi toà xét xử.
Trong nhiều năm liền, Murray Guterson cùng với Tony Savage là những luật sư nổi tiếng nhận hầu hết những vụ trọng án tại Seattle. Riêng Murray Guterson còn được mệnh danh là “luật sư của các luật sư” vì ông từng ra tay gỡ cho nhiều luật sư gặp rắc rối với luật pháp tuy rằng không phải vụ nào cũng thành công. Vụ án Gordon Walgren là một ví dụ.
Gorgon Walgren vốn là một luật sư, cũng như Murray Guterson, ông ta tốt nghiệp Trường Luật thuộc đại học Washington và được thuê làm điều tra viên cho văn phòng Tổng chưởng lý. Qua năm 1958, Walgren trở thành công tố viên hạt Kitsap nhưng bị mất chức năm 1962 do sai lầm trong vụ án một bác sĩ đầu độc vợ.
Từ đây, Walgren hành nghề luật sư tư và bước vào con đường chính trị, bắt đầu từ ghế nghị sĩ hạ viện của Viện lập pháp bang năm 1966 tới năm 1975 đã là thủ lĩnh phe đa số dân chủ tại Thượng viện bang Washington. Năm 1977, Walgren từng có tên trong danh sách để cử bổ nhiệm thẩm phán liên bang.
Tuy nhiên, năm 1978, Walgren cùng với chủ tịch Hạ viện John Bagnariol bị rơi vào tầm ngắm của FBI. Khởi đầu theo yêu cầu của chính quyền bang Washington, FBI vào cuộc điều tra một vụ đánh bạc và đưa hối lộ tại Vancouver thuộc hạt Clark.
Để “lần dây moi củ”, FBI cho thám tử Harold Heald đóng giả là đại diện cho một công ty “So – Cal” của những kẻ bất hảo có trụ sở California. Theo lời Heald, “So-Cal” mong muốn mở rộng làm ăn ở nơi đây nên thông qua một chủ sòng bài ở Vancouver để tiếp cận chuyên gia vận động hành lang Patrick Gallagher và qua ông này tới gặp Walgren và Bagnariol.
Theo FBI, trong khoảng từ tháng 6/1978 đến tháng 1/1980, giữa Walgren, Bagnariol và Gallagher đã diễn ra 150 cuộc nói chuyện. Tuy không phải tất cả các cuộc chuyện này đều được ghi âm nhưng FBI cũng có trong tay băng thu tiếng của 38 giờ đàm thoại thảo luận về việc thu xếp để nghị viện bang thông qua luật hợp pháp hóa việc đánh bạc và hoạt động đánh bạc này sẽ do “So-Cal” kiểm soát. Đổi lại, mỗi người trong nhóm Walgren sẽ nhận được 6% lợi nhuận đánh bạc của “So-Cal”.
|
Gordon Walgren |
Cả Bagnariol, Walgren và Gallagher đều chối tội và cáo buộc đây là một trò chơi chính trị của Dixy Lee Ray – thống đốc thứ 17 và là nữ thống đốc đầu tiên của bang Washington. Trước toà, Gallagher bị cáo buộc 14 tội, Walgren – 13 tội và Bagnariol – 11 tội.
Gordon Walgren thừa nhận đã đề nghị bán cho viên thám tử FBI một công ty vận tải Bremerton của ông ta đang thua lỗ nhưng cho rằng đấy là công việc làm ăn chứ không phải là một cách đòi hối lộ trá hình. Luật sư Murray cũng cho rằng Walgren kéo dài những cuộc nói chuyện với thám tử FBI với hy vọng sẽ bán được công ty Bremerton hay nhận được đóng góp cho các chiến dịch tranh cử sắp tới của mình.
Walgren thừa nhận ông đã nhiều lần gặp Harold Heald ở Washington, San Francisco và La Vegas nhưng những cuộc gặp này cũng giống như mọi cuộc gặp với các nhóm vận động hành lang khác nhằm sửa đội luật về đánh bạc của tiểu bang Washington.
Bào chữa cho Walgren, Murray Guterson cho rằng Walgren là người khôn khéo, tuy dễ tiếp cận nhưng không dễ nhận được cam kết của ông ta. Ông lịch sự nghe mọi ý tưởng của các nhóm vận động hành lang nhưng không gật hay lắc đầu.
Bằng chứng cho sự vô tội của Walgren là trong suốt hai năm 1978-1980 bang Washington đã không thông qua bất cứ luật mới nào về đánh bạc. Theo Murray Guterson nếu muốn, Walgren có thể “tìm thấy đường đi và có xe để đi”.
Bình luận về tuyên bố của Gallagher rằng hắn có thể "bỏ Walgren vào túi quần”, rằng hắn có thể sử dụng các công cụ chính trị to lớn, Murray Guterson nhận định đó là những câu nói “một tấc tới trời” của một kẻ đi bán rong.
Bằng chứng từ băng ghi âm của Harold Heald cho thấy hôm 12/12/1979 khi thám tử Harold Heald đưa cho Walgren 2.000 USD gọi là tiền để đóng góp ủng hộ ông ta ra tranh cử chức tổng chưởng lý bang Washington, Walgren đã từ chối.
Vì thế, Murray Guterson đã nắm lợi thế khi ông phản bác cáo buộc của Heald rằng hôm 13/2/1979 giữa viên thám tử này và Walgren đã đạt được một thỏa thuận về luật đánh bạc nhưng vì máy ghi âm của Heald hỏng bất ngờ nên không nghe được cuộc đối thoại.
Cũng như các luật sư khác Murray Guterson nhận định chiến dịch 21 tháng của FBI chỉ nhằm mục tiêu chính trị là "dúi tiền” vào tay thân chủ của ông.
Kết thúc phiên toà, Walgren cùng hai đồng phạm lãnh án 5 năm tù mỗi người. Sau khi kháng cáo lên Tòa án tối cao bị từ chối, Walgren thi hành án tù 2,5 năm.
Chân dung luật sư tài danh
Đã có lần Murray Guterson đùa rằng nếu số phận không đẩy ông vào nghề luật sư thì ông đã kiếm sống bằng nghệ kịch sĩ. Năm 1982, cùng với người bạn đồng học William Dwyer lúc này đã là thẩm phán toà liên bang, Murray Guterson tham gia một vở kịch dựng lại một vụ án có thật hồi năm 1925.
Ông thủ vai luật sư Clarence Darrow bảo vệ cho thầy giáo trung học John Scopes bị truy tố vì dám đi ngược lại luật pháp của bang Tennessee cấm dạy về thuyết tiến hóa trong các trường học của bang này. Vở kịch này được nhóm kịch của các vị luật sư và quan toà diễn lại 10 lần lấy tiền góp cho quỹ từ thiện. Năm năm sau, Murray nhận vào vai luật sư trong vở kịch Phiên toà vụ nổi loạn trên chiến hạm Cain trên sân khấu Nhà hát Intiman ở Seattle và được giới phê bình đánh giá cao.
|
Luật sư Murray Guterson ảnh năm 1974 |
Murray Guterson từng là chủ tịch hội luật sư Seattle những năm 1970, năm 1992 ông được trao giải thưởng của Hiệp hội luật sư hình sự bang Washington.
Ông là người rất cẩn trọng trong nghề. Richard Hansen, một trong 20 luật sư nổi tiếng nhất của Seattle hiện thời nói rằng Murray Guterson là “hiện thân của tất cả những gì khiến tôi ao ước trở thành luật sư”. Thời còn là sinh viên, khi Hansen lần đầu tiên đến toà, ông đã sửng sốt chứng kiến Murray lúc nằm sấp, lúc lật ngửa ngay trên sàn tòa án trước mặt bồi thẩm đoàn để giải thích một chi tiết vụ án đang xử.
Về sau, Hansen có dịp cùng Guterson tham gia bào chữa cho một vụ án hiếp dâm, ông đã vô cùng ngạc nhiên trước tài biện luận của ông thầy mình: Đoàn bồi thẩm chỉ mất 20 phút để quyết định tha bổng cho bị can sau bài bào chữa dài hai tiếng rưỡi của Guterson.
Murray Guterson có một cuộc sống riêng hạnh phúc bên người vợ Shirlry cùng 5 đứa con và 17 cháu. Hai người con gái của ông đều là luật sư, riêng người con gái đầu lấy chồng cũng là luật sư. Ba con trai của ông không ai nối nghiệp cha nhưng người con trai út David Guterson được trao giải thưởng văn học danh gía Faulkner năm 1995 cho tiểu thuyết đầu tay của anh.
Murrat Guterson qua đời hôm 7/10/2013 thọ 83 tuổi sau hơn 50 năm hành nghề.