Thông tin trên được đưa ra trong Báo cáo Nghèo đa chiều ở Việt Nam: “Giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh để đảm bảo cuộc sống có chất lượng cho mọi người”, do Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP), Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam công bố ngày 19/12.
Báo cáo khẳng định những tiến bộ ấn tượng của Việt Nam trong việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 1 (SDG1) “giảm nghèo ở mọi chiều cạnh và ở mọi nơi”. Theo báo cáo, tỷ lệ nghèo cùng cực (đo bằng chỉ số SDG dưới 1,9 USD/người/ngày) của Việt Nam đã giảm mạnh từ 49,2% năm 1992 xuống còn 2% năm 2016.
Báo cáo cho rằng, trong số 17 SDGs mà Việt Nam cam kết đạt được vào năm 2030, SDG1 về giảm nghèo có khả năng đạt được cao nhất. Thành tích về giảm nghèo đã giúp Việt Nam đứng thứ 57 trong tổng số 193 nước thành viên của Liên Hợp quốc về chỉ số SDG năm 2018, tăng 9 bậc so với xếp hạng năm 2017.
Theo báo cáo, việc Chính phủ Việt Nam ban hành chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2015 là bước quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ đo lường nghèo theo thu nhập sang đo lường đa chiều. Điều này đã đưa Việt Nam trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong việc áp dụng cách tiếp cận nghèo đa chiều trong quá trình thực hiện SDG1.
Báo cáo khẳng định những tiến bộ ấn tượng của Việt Nam trong việc giảm nghèo. |
Tuy nhiên, báo cáo cũng nhấn mạnh khoảng cách nghèo giữa các vùng miền và các nhóm dân tộc vẫn là thách thức lớn đối với Việt Nam trong việc thực hiện thành công SDG1. Nghèo đói vẫn tồn tại ở nhiều khu vực, đặc biệt là các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Tỷ lệ nghèo đa chiều ở vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên cao gấp 2 lần so với mức trung bình của cả nước. Vẫn theo báo cáo, trong khi tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2016 của dân tộc Kinh là 6,4% thì tỷ lệ này ở một số nhóm dân tộc thiểu số cao hơn nhiều, ví dụ tỉ lệ ở dân tộc H’Mông là 76,2%; dân tộc Dao là 37,5% và Khmer 23,7%.
Báo cáo cũng nêu bật khoảng cách nghèo đói tính theo các chiều về chi tiêu, thu nhập, giáo dục và tiếp cận nhà tiêu hợp vệ sinh giữa dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã ngày càng gia tăng trong giai đoạn nghiên cứu 2012-2016.
Trong cùng thời gian, các hộ nghèo đa chiều có người khuyết tật được tiếp cận ít hơn với cơ hội giáo dục và việc làm so với mức trung bình của cả nước.
Phát biểu tại Hội nghị công bố báo cáo, bà Caitlin Wiesen - quyền Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam – cho rằng, tiến bộ mà Việt Nam đạt được trong giảm nghèo là “thành công ở tầm thế giới”.
Theo bà, Việt Nam đạt được thành công được công nhận rộng rãi trên toàn cầu này là nhờ tăng trưởng bao trùm, giúp tạo việc làm cho người dân; tiếp cận tương đối công bằng đối với các dịch vụ xã hội cơ bản; cùng các chương trình mục tiêu và chính sách bảo trợ xã hội giúp những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương cải thiện sinh kế và chất lượng cuộc sống.
Quyền Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam cũng nêu một số khuyến nghị để Việt Nam có thể giảm bớt khoảng cách nghèo giữa các vùng miền và các nhóm dân tộc. Theo đó, ngoài việc mở rộng dịch vụ xã hội và bảo trợ xã hội theo hướng phổ quát, Việt Nam cần thực hiện các biện pháp để tăng cường năng lực phát triển kinh doanh của đồng bào dân tộc thiểu số, năng cao khả năng tiếp cận tài chính, ươm mầm khởi nghiệp và thị trường cho họ.
“Việt Nam có thể tiếp tục giảm nghèo thành công hay không phụ thuộc vào khả năng đảm bảo tăng trưởng bao trùm tạo công ăn việc làm tốt hơn cho người dân và hỗ trợ hiệu quả những người bị bỏ lại xa nhất”, bà Wiesen nói.