Một vụ ly hôn bị kháng nghị phúc thẩm tại Bến Cát: Tòa sơ thẩm có bỏ qua chứng cứ?

(PLVN) - VKSND thị xã Bến Cát (Bình Dương) đã có Quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án số 50/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 của TAND thị xã này, về việc “Tranh chấp tài sản chung sau ly hôn” giữa nguyên đơn là ông Đỗ Khắc Khôi Nguyên (trú tại 110 lô S, cư xã Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM) và bà Đỗ Tú.
Một vụ ly hôn bị kháng nghị phúc thẩm tại Bến Cát: Tòa sơ thẩm có bỏ qua chứng cứ?

Tòa có bỏ qua chứng cứ?

Phản ánh đến Báo PLVN, ông Nguyên cho biết, ông và bà Tú kết hôn năm 2009 và đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 426/2013/QĐST-HNGĐ (QĐ426) ngày 18/12/2013 của TAND quận Bình Thạnh, TP HCM. Theo quyết định này thì ông và bà Tú không có tài sản chung và nợ chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân. 

Năm 2018, ông Nguyên cần bán căn nhà số 9 lô J54 khu Công nghiệp và đô thị Mỹ Phước 3, phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương là tài riêng của ông, nhưng bà Tú không đồng ý xác nhận.

Khẳng định số tiền để nhận chuyển nhượng nhà, đất trên là tài sản riêng của ông có từ trước thời kỳ hôn nhân và ông có đủ giấy tờ chứng minh đây là tài sản riêng, nên ông Nguyên đã có đơn khởi kiện ra TAND thị xã Bến Cát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông; xác định diện tích nhà đất trên là tài sản riêng của ông và không chấp nhận đơn phản tố của bị đơn vì đây không phải tài sản chung.

Tuy nhiên, tại Bản án số 50/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về việc “Tranh chấp tài sản chung sau ly hôn”, TAND thị xã Bến Cát đã tuyên xử: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyên về việc yêu cầu xác định tài sản riêng đối với bị đơn là bà Đỗ Tú”. Đồng thời, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là bà Tú. 

Theo đó, bà Tú được quyền sở hữu nhà ở đối với diện tích đất 150m2 thuộc thửa số 4689, tờ bản đồ số 34 và căn nhà gắn liền trên đất, có diện tích sử dụng là 90m2, diện tích sàn là 375m2 (tại phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát). Bà Tú có nghĩa vụ hoàn lại cho ông Nguyên số tiền 900 triệu đồng.

Ông Nguyên cho rằng, về mặt tố tụng, phiên tòa xét xử của TAND thị xã Bến Cát đã vi phạm nghiêm trọng Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; về mặt nội dung đã lập luận không đúng dựa trên việc quy kết chủ quan, không có cơ sở. 

Về nguồn gốc của căn nhà, ông Nguyên cho biết: Năm 2011 ông ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn trên đất với ông Trần Ngọc Hoàng và bà Nguyễn Khoa Thủy Tiên để nhận thửa đất số 4689, tờ bản đồ số 34 và căn nhà gắn liền trên đất (tại phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát). Khi đó, ông đã giao đủ số tiền 550 triệu đồng cho ông Hoàng và bà Tiên. “Tuy việc mua bán diễn ra trong thời kỳ hôn nhân với bà Tú, nhưng số tiền mua đất trên là tài sản riêng của tôi có từ trước thời kỳ hôn nhân, tôi có đủ giấy tờ chứng minh đây là tài sản riêng, bà Tú không có bất kỳ quyền lợi liên quan gì đối với nhà, đất trên”, ông Nguyên khẳng định. 

Quá trình TAND thị xã Bến Cát thụ lý vụ án, ông Nguyên đã cung cấp 2 chứng cứ quan trọng là QĐ 426, nêu rõ: Trong thời kỳ hôn nhân, ông Nguyên và bà Tú không có tài sản chung, không có nợ chung và tại đơn đơn phương xin ly hôn do bà Tú chủ động nộp cho TAND quận Bình Thạnh, TP HCM ngày 03/07/2012 cũng khẳng định bà và ông Nguyên không có bất cứ tài sản chung nào.

Ông Nguyên cho rằng, HĐXX đã không xem xét QĐ 426 là sai quy định pháp luật, do đó ông đã kháng cáo. 

Án sơ thẩm bị kháng nghị

Ngày 27/11/2018, VKSND thị xã Bến Cát đã có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 05/QĐKNPT-VKS-DS đối với Bản án số 50/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 của TAND thị xã Bến Cát.

Theo Quyết định kháng nghị: Trong quá trình tố tụng, phía nguyên đơn là ông Nguyên đã cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh nguồn tiền để mua nhà và đất tại phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát. Ngày 28/10/2011, ông Nguyên được UBND huyện Bến Cát cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà số CH 08833, lúc này ông Nguyên và bà Tú chưa ly hôn, bà Tú cũng không có ý kiến gì về vấn đề này. Mặt khác, tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 426/2013/QĐST-HNGĐ ngày 18/12/2013 của TAND quận Bình Thạnh cũng đã nêu rõ về tài sản chung và nợ giữa ông Nguyên và bà Tú là không có.

Về việc bà Tú có đơn phản tố yêu cầu được chia đôi tài sản này và xin được nhận nhà và đất tranh chấp nói trên sau khi thanh toán bằng tiền mặt cho ông Nguyên, Quyết định kháng nghị cho rằng: Việc phản tố của bà Tú là không có cơ sở, bởi vì: Quá trình tố tụng, bà Tú không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh trong thời gian hôn nhân từ năm 2009 đến năm 2013, bà Tú có đóng góp tiền, tài sản hay công sức nào cho ông Nguyên để nhận chuyển nhượng phần đất và nhà đang tranh chấp tại phường Thới Hòa.

 “Ông Nguyên có đủ căn cứ chứng minh cho nguồn tài sản riêng của mình có được trong thời kỳ hôn nhân là bắt nguồn từ tài sản riêng của mình trước đó. Bà Tú có đơn phản tố, nhưng không có căn cứ chứng minh được sự đóng góp của bà Tú vào tài sản này. Do đó, đây là tài sản riêng của ông Nguyên. Đây là căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyên theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình”, Quyết định kháng nghị nêu.

Theo đó, VKSND thị xã Bến Cát đã kháng nghị và đề nghị TAND tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm theo hướng sửa Bản án số 50/2018/HNGĐ-ST.

Đọc thêm