Cuộc giải cứu 3 năm trước
3 năm trước, một người đàn ông đã được “giải cứu” từ rừng rậm của Việt Nam sau khi đã trải qua 41 năm, tức gần như toàn bộ quãng đời mà anh đã đi qua – hầu như không có bất cứ mối liên hệ nào với con người. Cha của anh, một cựu binh, đã chạy vào rừng vào năm 1972 khi lính Mỹ dội bom xuống ngôi làng của họ, giết chết tất cả những người khác trong gia đình.
Trong suốt 4 thập kỷ sau đó, anh Hồ Văn Lang đã cắt đứt hoàn toàn với thế giới văn minh. Anh và cha là ông Hồ Văn Thanh đã sống sót nhờ việc săn bắt, kiếm ăn và sống trong những ngôi nhà được dựng trên cây, di chuyển sâu thêm vào rừng mỗi khi những ngôi làng ở gần đó mở rộng. Ông Thanh nghĩ rằng chiến tranh vẫn đang tiếp diễn nên rất sợ người và bỏ trốn mỗi khi gặp những người khác.
Những câu chuyện về 2 cha con họ đã được người dân ở những ngôi làng quanh đó kể cho nhau nghe và đến khoảng 10 năm trước, một người đàn ông tên Hồ Văn Tri đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến họ. Bởi, trong suốt đợt Mỹ ném bom, một người con trai khác của ông Thanh cũng sống sót.
Sau khi nghe được những câu chuyện trên, anh Tri đã dành nhiều năm trời vào rừng để tìm cha và em trai. Cuối cùng, anh cũng đã gặp được họ và bắt đầu xây dựng quan hệ với anh Lang, thường xuyên đến thăm để thuyết phục anh Lang và cha về nhà.
Cuối cùng, với việc sức khỏe của ông Thanh ngày càng xấu đi và sự khuyến khích của giới chức địa phương, anh Lang và cha đã được “giải cứu”. Tin tức về câu chuyện của họ sau đó đã lan ra khắp thế giới, 3 năm đã qua đi, anh Lang và cha hiện sống trong một ngôi nhà, dần dần thích nghi với văn minh.
Người đáng yêu nhất
Hồi tháng 11 năm ngoái, ông Alvaro Cerezo – quản lý Docastaway, công ty chuyên tổ chức các kỳ nghỉ ở những khu vực hẻo lánh, không có người sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới – đã gặp anh Lang. Ban đầu, ông này chỉ định hỏi anh Lang về một số kỹ năng sống sót nhưng họ sau đó lại đã ở cùng nhau 5 ngày ở khu rừng nơi anh Lang đã lớn lên.
Viết về trải nghiệm của mình, ông Cerezo cho hay: “Trong vài giờ đầu tiên tôi ở cùng anh Lang, tôi thấy anh ấy rất thích thú với ý tưởng quay trở lại với rừng rậm, nơi anh lớn lên. Anh Lang không nghi ngờ gì và chấp nhận cùng với anh trai, tôi cùng người phiên dịch đi vào giữa rừng.
Ban đầu, tôi chỉ định học một số kỹ năng sống sót mới từ anh ấy mà không nhận ra rằng tôi vừa phát hiện được một trong những người đáng yêu nhất mà tôi từng gặp. Khi nhận thấy điều này và một số lý do khác, tôi đã quyết định thoải mái tận hưởng cuộc sống cùng với anh ấy trong môi trường của anh ấy” – ông Cerezo kể lại.
Theo ông ông Cerezo, anh Lang rất giống trẻ con trong cách hành xử. Anh ta không có khái niệm về thời gian mà chỉ biết ngày và đêm, không biết nguồn năng lượng nào khác ngoài lửa và mặt trời. “Người đàn ông 41 tuổi đó chưa từng nhìn thấy những ánh sáng nhân tạo hay thậm chí là đường chân trời. Anh ta hoàn toàn phớt lờ thế giới văn minh bên ngoài, trừ những câu chuyện mà người cha kể cho anh ta về việc những chiếc máy bay bay qua bầu trời” – ông Cerezo nói thêm.
Anh Hồ Văn Lang |
Cuộc sống trong rừng
Ông Thanh đã không nói cho con trai nhiều về thế giới bên ngoài. Ông muốn anh Lang sợ những người khác, có người lại nói là do ông tin rằng chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. Ông cũng không nói cho con trai về những người phụ nữ để giảm bản năng của con. Chiến lược này của ông đã có hiệu quả. Ông và anh Lang đã sống rất hạnh phúc với nhau.
Trong 41 năm, họ đã sống ở 5 khu vực khác nhau trong cùng một dãy núi. Những ngôi nhà cây được dựng lên bằng cách dùng một cây to làm trụ chính. Họ xây nhà ở cách mặt đất chỉ vài mét. Ban đầu, họ sống ở vùng đất thấp, nơi khí hậu ấm hơn và có nhiều nước.
Những trận mưa lớn đồng nghĩa với việc con sông chảy quanh năm và họ không phải đun hay lọc nước. Thức ăn của họ cũng rất đa dạng, có thể là trái cây, rau, mật ong và các loại thịt khác nhau.
“Một trong những điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là khả năng tìm kiếm thức ăn trong rừng của anh Lang. Với anh ấy, phần lớn các cây trong rừng đều ăn được” - ông Cerezo nói. Ngoài ra, họ cũng ăn thịt khỉ, chuột, thằn lằn, ếch, dơi, chim và cá – thức ăn yêu thích của anh Lang.
Vì các hoạt động của con người nên sau đó họ đã phải chuyển tới sống ở nơi cao hơn và không được ăn cá trong suốt 20 năm sau cùng sống trong rừng. Trước đó, để bắt được cá, họ thường lấy những thân cây để chặn 2 đầu một khúc sông lại và dùng đá để ném cá rồi bắt bằng tay. Với anh Lang, không có bất cứ bộ phận nào trên người một con vật là không ăn được.
“Khi ở trong rừng, tôi đã thấy anh Lang ăn dơi và ăn chuột” – ông Cerezo kể. 2 cha con họ đã đặt rất nhiều vật bảo vệ xung quanh ngôi nhà của mình nên không có bất cứ thứ gì trong rừng có thể làm hại họ.
Một ngọn lửa đã được họ duy trì gần như thường xuyên. Họ cũng đã làm nhiều loại công cụ, dao kéo và đồ dùng nấu ăn từ các vật dụng tìm được trong rừng, trong đó có những mảnh thép từ những quả bom bị ném xuống.
“Trong vài năm đầu tiên, họ đã chế các đồ dùng nhà bếp như chảo, nồi và đĩa từ những mảnh đồng mà họ tìm được trong một chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi. Họ không ăn bằng tay mà dùng đũa vót từ tre. Họ có khoảng 20 món đồ nhà bếp và những thứ này hiện vẫn được giữ trong làng” – ông Cerezo kể tiếp.
Hai cha con họ nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ ít người biết của một nhóm người dân tộc thiểu số ở khu vực Cor. Anh Lang có thể đếm đến 10 nhưng cho rằng chẳng lý do gì để anh học đếm đến số lớn hơn. Anh cũng không biết viết số.
Thích ứng với cuộc sống mới
Trong 2 thập kỷ qua, việc phá rừng để thâm canh đã đẩy họ phải chuyển tới sống ở những khu vực ngày càng cao. Cuối cùng, họ chẳng còn nơi nào khác để đi vì họ cho rằng đỉnh núi bị ma ám nên phải co cụm lại.
Va chạm với những người khác vì thế càng ngày càng trở thành việc không thể tránh được và đó cũng là thời điểm mà anh trai của anh Lang nghe được thông tin về sự tồn tại của họ và bắt đầu đến thăm 2 cha con anh.
Vì tuổi tác đã cao nên người cha ngày càng chậm chạp hơn và buộc phải chấp nhận những chuyến thăm của người tự nhận là con trai ông dù ông vẫn luôn cho rằng cả gia đình ông, trừ anh Lang, đều đã chết trong trận bom năm nào. Tuy nhiên, anh Lang lại tỏ ra chấp nhận hơn và không thấy phiền khi anh Tri bắt đầu mang muối và gia vị trong mỗi chuyến thăm họ hàng năm.
Cuối cùng, với việc sức khỏe của ông Thanh ngày càng tệ, cuộc sống của anh Lang cũng trở nên khó khăn hơn. Trong vài năm cuối trong rừng, anh thường xuyên sống trong trạng thái căng thẳng và lo sợ, thậm chí thức cả đêm vì lo sợ cha sẽ chết. Vì vậy nên anh đã không phản kháng khi trở về làng cùng anh trai.
Anh Lang được đưa về làng bằng 1 chiếc xe hơi – thứ mà anh từng được cha kể lại khi còn nhỏ. Trong suốt quãng đường về, anh nhìn chằm chằm qua cửa xe để rồi khi về đến làng anh đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy những con vật được người dân ở đây nuôi như “những người bạn”.
Về sau, vào ban đêm, anh vô cùng thích thú khi nhìn thấy ánh sáng từ những bóng đèn. Anh nói rằng nhìn được ánh sáng vào ban đêm là việc kỳ diệu, tương tự như khi lần đầu tiên được xem TV. Nhưng vì đã được cha kể khi còn nhỏ nên anh biết được rằng những người xuất hiện trên TV không phải là những người bên trong 1 cái hộp.
Khi ở trong rừng, cả anh Lang và cha đều chưa từng gặp vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Cả 2 đều chỉ bị cảm khoảng 1 lần mỗi năm và thi thoảng bị đau dạ dày. Nhưng khi về làng, cả 2 người họ đều bị ốm vì họ chưa từng gặp những loại vi khuẩn và virus mà những người khác đã có miễn dịch.
Về nhận thức, anh Lang nghĩ rằng mặt trăng do con người tạo ra và bị treo lên trời theo chu kỳ. Anh nhận thức được cái chết nhưng không nói về vấn đề này. Cho đến khi họ được đưa về làng, anh không hề biết mình nhìn ra sao trừ những hình ảnh anh nhìn thấy qua phản chiếu trên mặt nước. Đầu óc anh được cho là bằng một đứa trẻ 1 tuổi ở nhiều khía cạnh. Anh cũng được cho là không có ham muốn tình dục tối thiểu và bản năng sinh sản cũng chưa bao giờ xuất hiện trong đầu.
Hiện nay anh Lang đang sống trong làng. Anh vẫn rất thiếu hiểu biết về các quy tắc xã hội, vô cùng đáng tin và vâng lời và cũng khó có thể phân biệt được tốt xấu. Cho đến nay, anh tỏ ra thích ứng tốt với cuộc sống mới. Hàng ngày, anh chủ yếu làm đồng với anh trai.