Bếp của mẹ

(PLVN) - Mẹ sinh ra và lớn lên tại một vùng quê Bắc bộ. Từ khi mẹ còn nhỏ, ông bà ngoại tôi đã đến Hà Nội làm việc, để lại mẹ ở quê với cụ ngoại. Mẹ tôi trưởng thành bên luống rau xanh tự trồng, mùi khói bếp thổi bằng rơm, rạ. Đến khi lớn lên, tới thành phố học đại học, lấy chồng, sinh con, mẹ vẫn giữ được vẻ đẹp tự do, cá tính của một cô gái sống tự lập ở vùng quê nghèo từ sớm.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Có lẽ, cũng vì quen nếp sống xưa, mẹ tôi tự mua một căn nhà cấp bốn có mảnh vườn xinh xinh ở gần vùng núi, mỗi tháng bà lại về đó đôi ba lần. Lũ trẻ con chúng tôi cũng hay mon men đi cùng mẹ. Tôi nhớ từ hồi ngày xửa, ngày xưa, khi ngôi nhà ở vùng núi đó còn thô sơ, hẻo lánh, chẳng có đèn đường, dân làng không ai dùng bếp ga, mẹ chúng tôi rất thích cách sống đó và nhanh chóng thích nghi. Cứ cuối tuần, khi chúng tôi nghỉ học lại đến vùng núi chơi cùng mẹ, bà thường xuyên dắt mấy đứa nhỏ bọn tôi lên núi nhặt những đụn lá thông khô, cành củi chặt ra từ mấy cái cây thối rễ lâu ngày. Bữa cơm của mẹ không có bếp ga, bếp điện như ở thành phố đâu. Trong nồi gang to đùng, đen sì sì, mẹ nhóm bếp để nấu cơm.

Chúng tôi không biết mẹ nấu như thế nào, nhưng cơm của bà chẳng bao giờ sống hay khê. Mỗi khi ăn hết cơm, bên dưới có một lớp cháy vàng, giòn tan, chấm với nước tương hay mấy muỗng kho quẹt là ngon “tuyệt cú mèo”. Nhiều lúc nhìn mẹ phồng má thổi lửa, cố đun mấy đụn lá ẩm. Tôi lại ca cẩm: “Sao mẹ phải khổ thế, mua cái bếp ga như ở nhà (trong thành phố) cho sướng!”. Mẹ tôi mỉm cười lắc đầu, mẹ nói rằng cơm ngon là dùng nước mưa để nấu, củi, lá thông khô để đun. Cơm như vậy mới ngon, mới bùi và có mùi trong trẻo, tinh khiết của sớm mai.

Mẹ tôi vốn tinh tế thế đấy, ai bảo người phụ nữ xuất thân ở vùng đất trũng nghèo nàn ấy là quê mùa được? Bà có cách thưởng thức đồ ăn vô cùng tao nhã. Mỗi mâm cơm của bà, lúc nào cũng đủ năm món: món canh, món mặn, món rau, món tráng miệng và trà sau khi ăn xong. Bà nói ở quê trước kia không ai dạy bà, sau này lên đại học, vô tình đỗ vào trường mỹ thuật, từ đó, bà đâm ra mê cái vẻ đẹp á đông trong cách ăn uống, sinh hoạt, thưởng thức nghệ thuật.

Cũng nhờ những bức họa tìm hiểu về thời Lý, Trần, Lê, bà đâm ra thích đạo Phật, từ đó cơm của bà cũng trường kỳ chay tịnh. Tuân theo quy luật trời đất, mỗi món ăn bày trên mâm của bà mùa nào thức ấy. Mùa xuân cải mầm cay ngọt, mùa hạ canh bầu, hoa thiên lý xào. Mùa thu măng tre non tươi rói, ăn với đĩa lạc rang húng lìu. Mùa đông đĩa cải xanh xào nấm hương, ăn kèm rau củ hầm nóng hôi hổi.

Mẹ tôi thường bảo ăn rau phải đúng mùa, đúng vụ mới thấy được vị tươi ngon của trời đất. Mảnh vườn của bà mỗi mùa một “thức quà” riêng. Mùa thì dàn mướp, dàn bí xúng xính uốn lượn. Mùa thì đám cải mầm lú nhú mọc trên đất. Có mùa thì nở trắng những bông xúp lơ to tròn.

Xào rau, luộc rau đối với mẹ tôi cũng là một công đoạn cầu kỳ. Với những ngày sống ở thành phố thì bà chấp nhận dùng nước máy, bếp ga, bếp điện. Nhưng cứ về đến nơi thôn dã này, bà lại dùng nước mưa, nước giếng khơi. Chảo của bà phải là chảo sâu lòng, bếp phải dùng lá thông, hoặc rơm để có được mùi khói thanh nhẹ, được mẹ ví von giống như thảo mộc. Bà ghét nhất là dùng bếp than, bếp ga vì nó chẳng đem lại dư vị nào cả. Rau được xào tùy vào loại rau, loại xào tái, loại xào chín. Có loại mẹ tôi cho thêm chút nước, có loại tuyệt đối không cho tí nào. Có loại rau bà thích xào bằng dầu điều, nhưng loại khác lại xào bằng dầu đậu nành, cũng có món mẹ lại dùng dầu oliu. Riêng tủ bếp của mẹ tôi, nguyên liệu phải xếp ra hai hàng dài.

Khi bàn về các món ăn, mẹ tôi vừa như một ông Nguyễn Tuân tinh tế, tỉ mỉ, lại vừa giống một ông Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn tản, vui thú với cuộc đời. Bà coi nấu ăn là một môn nghệ thuật, cách người nghệ sĩ trình diễn tài năng về vị giác, thị giác, khứu giác. Trong chạn bát của bà, vì vậy có hàng loạt loại đĩa từ gốm bát tràng, men xanh sứ Huế,… Mỗi đĩa bà đựng loại quả riêng theo mùa. Ví thử mùa hạ là mấy trái vải ướp lạnh trong cánh sen xanh đặt lên chiếc đĩa gốm sứ trắng. Hay mùa đông là mấy khoanh bánh hoa quế vuông vức nằm trên chiếc đĩa trạm khắc hoa thủy tiên.

Đến với căn bếp của mẹ tôi, dù ở thành phố hay ở quê cũng là một mùi trà thanh nhẹ thoang thoảng. Tôi luôn ca thán mẹ cầu kỳ, trà nào chẳng là trà. Đối với bà thì không, trà là của thiên nhiên đất trời. Như khi mùa hè về, mẹ tôi lại bóc những bọc trà làm từ sen tươi, bà lấy nước trên thượng nguồn của những con suối lớn như ở Tam Đảo, hãm trong một chiếc ấm được đun từ củi khô mùa hè. Giữa đêm thanh vắng cuối tháng sáu âm lịch, khi ánh trăng khuyết hờ hững trên bầu trời, cơn gió núi hây hây mát nhẹ, bước ra khỏi căn bếp mộc mạc của mẹ tôi, tất cả ánh đèn trong nhà sẽ tắt. Mọi người cùng ngồi ra ngồi trên chiếc võng đã cũ, vừa thưởng trà, vừa ngắm đóa quỳnh trắng đang nở trong đêm, lim dim đôi mắt nghe tiếng mẹ kể câu chuyện của thủa xưa cũ…