Đền Tam Giang thờ nhân vật lịch sử huyền thoại thời Hùng Vương dựng nước là thần Thổ Lệnh, ông là thần làng - thần sông Bạch Hạc đã có công chu du thiên hạ tìm phương thuốc quý chữa trị tật bệnh cho muôn dân, khi mất lại linh ứng giúp cho các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước.
Ông đã cùng với người anh sinh cùng bọc với mình là Thạch Khanh thi bước qua sông và thắng cuộc, được Lý Thường Minh đô đốc Phong Châu đắp tượng thờ tại Thông Thanh Quán (đền Tam Giang Bạch Hạc). Hiện nơi đây vẫn còn vết chân Thần trước đền và gót chân Thần bên Bến Gót (nay là phường Bến Gót, thành phố Việt Trì).
|
Đền Tam Giang có địa thế đẹp, hướng ra ngã ba sông Bạch Hạc, non nước hữu tình. |
Ngôi đền còn thờ Đức Thánh Bà Quách A Nương, một nữ tướng tài của Hai Bà Trưng có tên hiệu là Khâu Ni công chúa, một người con của vùng quê Bạch Hạc. Bà đã hưởng ứng lời hiệu triệu của Hai Bà Trưng, cùng các chị em dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán dành độc lập; Thờ nhân vật lịch sử triều Trần là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, con trai thứ 6 của Trần Thái Tông đã có công thu phục chúa đạo Đà Giang trấn giữ vùng Tây bắc, lập phòng tuyến Bạch Hạc suốt 30 năm.
Tương truyền, vào những năm Vĩnh Huy (650 - 655) đời nhà Đường, Lý Thường Minh lúc bấy giờ là đô đốc quận Giao Châu, thấy Bạch Hạc là vùng đất sơn chầu thủy tụ, sông núi ngàn dặm đều dồn về ngã ba sông, cho đây là đất tụ linh nên đã xây Thông Thánh Quán ở nơi này với tượng Tam Thanh và xây dựng hai tòa trước, sau. Ông định tô tượng nhưng phân vân không biết thần đất nơi đây ra sao nên biện lễ khấn thần: “Thần đất ở đây nếu linh thiêng thì xin hiện dạng cho được biết để tô tượng thờ”.
Lời khấn linh nghiệm ngay trong đêm đó, Lý Thường Minh nằm mộng thấy có hai dị nhân tướng mạo ngang tàng dẫn theo tùy tùng bước ra, tự xưng là Thổ Lệnh và Thạch Khanh. Lý Thường Minh nói: “Xin hai vị thử tài cao thấp, ai thắng thì được ở lại”. Ngay lập tức Thạch Khanh nhảy một bước qua sông thì đã thấy ngài Thổ Lệnh bên đó rồi, bèn nhảy lùi một bước về thì lại thấy ngài Thổ Lệnh bên này sông rồi.
|
Tượng Đức Thánh Hai (Chiêu Văn Vương Tả Thánh Thái sư Trần Nhật Duật) trước cửa đền Tam Giang. |
Thấy tài cao của các vị thần, Lý Thường Minh cho đắp tượng thờ thần Thổ Lệnh tại Thông Thánh Quán (nay là đền Tam Giang) và Thạch Khanh được thờ ở đền Chi Cát (nay thuộc phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì). Cuộc thi bước qua sông của hai vị thần đã để lại dấu ấn đến nay, một vết chân trước đền Tam Giang và một gót chân tại Bến Gót (nay thuộc phường Bến Gót, thành phố Việt Trì).
Từ đó, đất quý thần thiêng, khói hương tại Đền không bao giờ hết. Dân làng ai đến cầu đều linh nghiệm, các tướng lĩnh đời sau phụng mạng triều đình đi đánh giặc vào Đền yết lễ và được ứng giúp thắng lợi.
Đặc biệt, cuối năm Giáp Thân 1234, giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, Tả Thánh Thái Sư Trần Nhật Duật (con trai thứ 6 của Vua Trần Thái Tông, ông đã có 50 năm làm tướng và giữ nhiều trọng trách quan trọng trong triều đình của 5 đời vua) đã cùng Hứa Tông Đạo môn khách cắt tóc ăn thề trước thần Đền Tam Giang nguyện đem lòng trung báo ân vua, đền nợ nước.
|
Ngã ba Bạch Hạc - nơi hợp lưu của sông Đà, sông Lô chảy vào sông Hồng. |
Sau đại thắng quân Nguyên Mông lần hai, Trần Nhật Duật làm lễ tạ thần ở đền thiêng Tam Giang và cho xây dựng lại đền, đúc chuông lớn cung tiến. Trưởng công chúa Thiên Thụy - con gái đầu Vua Trần Thánh Tông, cháu ruột của Thường trụ khai quốc vương Trần Nhật Duật quản hương dân Bạch Hạc công đức tiền bạc xây dựng Thông Thánh Quán (đền Tam Giang) và Hứa Tông Đạo được giao khắc bài Minh chuông Thông Thánh vào năm 1321.
Đền Tam Giang đã được 19 sắc phong qua các triều đại phong kiến và đến năm 2010 được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Hàng năm, Đền có hai dịp lễ trọng đó là ngày sinh Đức Thánh (diễn ra trong 3 ngày 8,9,10/3 âm lịch) và ngày 25/9 ngày hóa Đức Thánh đồng thời là ngày tiệc Quan Thanh mừng chiến thắng quân Nguyên Mông, với các hoạt động: Lễ rước nước, lễ tế, các trò chơi dân gian như: ném còn, đánh đu, chọi gà, giã bánh giầy và thi bơi chải trên dòng Lô Giang lịch sử nhằm tưởng nhớ lại việc luyện thủy quân của Nhà Trần tại quân cảng Bạch Hạc.