Cuộc di tản đầu tiên được bắt đầu từ những đứa trẻ mà dư luận gọi là “chiến dịch Babylift” tai tiếng.
Chuẩn bị di tản
Sau khi Nha Trang thất thủ, Mỹ lập một lực lượng “can thiệp" để điều hòa các kế hoạch tản cư những cơ quan thuộc bộ. Nhà Trắng tránh bất cứ bình luận trực tiếp nào về cuộc khủng hoảng đang có xu hướng ngày càng lan rộng. Ở thời điểm này, quân Giải phóng đã thâm nhập sâu vào tỉnh Tây Ninh, giữ đường tiến về Sài Gòn ở phía Nam.
Ngày 3/4, quân giải phóng đánh chiếm Chơn Thành, cách Sài Gòn 70 kilômet về phía Bắc. Tin ấy về tới Sài Gòn, kiều dân phương Tây muốn rời khỏi Việt Nam. Chỉ một đêm, số người giữ chỗ trên chuyến máy bay quốc tế của hãng Pan Am tăng gấp hai lần; hãng hàng không China Airline không còn chỗ cho đến ngày 9/4.
Để ổn định tình hình, Đại sứ Martin nói với một nhà báo: "Sài Gòn không có gì nguy hiểm". Việc này khiến nhiều người Mỹ tức giận. Các cơ quan tình báo của bộ tổng tư lệnh của đô đốc Gayler ở Honolulu đã gửi điện cho Lầu Năm góc, phủ nhận những ý kiến của Martin.
Tổng thống Ford, đang nghỉ hè ở Palm Springs, phải tuyên bố với các nhà báo: Thiệu vội vàng rút lui khỏi Tây Nguyên nên việc tản cư sáu nghìn người Mỹ ở Việt Nam đã được đề ra. Ford giải thích, đạo luật quy định quyền hạn của tổng thống trong chiến tranh cho phép ông ta dùng lực lượng vũ trang để giúp việc tản cư công dân Mỹ ở bất cứ vùng nào trên thế giới.
Trong khi ấy, chiến tranh đã chạm đến cửa ngõ Sài Gòn. Ở thời điểm đó, theo quy định của Mỹ, các sứ quán Mỹ trên thế giới đều phải có một bản kế hoạch di tản dày 400 trang đề phòng trường hợp bất trắc có thể xảy ra. Đây là tài liệu mật chỉ được sử dụng khi cần thiết. Đại tá Garvin Mc Curdy, tùy viên không quân, đại tá Cornelius Carmody, tùy viên hải quân được giao phụ trách việc này.
Được một ê kíp nhỏ giúp việc, họ nhanh chóng thảo ra một kế hoạch cụ thể di tản những người Mỹ ở các quân khu và Sài Gòn. Từ tài liệu gốc, họ chỉ còn giữ lại một số người di tản không quá 6.800 người, phần lớn là người Mỹ. Polgar cũng được giao nhiệm vụ thảo một kế hoạch di tản những nhân viên tình báo và những nhân viên quan trọng nhất của Chính phủ Sài Gòn, nhưng ông từ chối.
Trong kế hoạch di tản này không hề có việc di tản những em bé mồ côi hay những đứa trẻ lai, một phần từ hậu quả của chiến tranh trước đó, mà kế hoạch này xuất phát từ chính Graham Martin. Chuyện là trước đây, khi làm Đại sứ ở Việt Nam Cộng hòa, Graham Martin từng đã có thời gian là đại diện Bộ Ngoại giao bên cạnh Ủy ban tị nạn của LHQ.
Nhìn thấy hoàn cảnh éo le của mỗi con người trong chiến tranh, Martin đã hiểu rõ sự thất vọng của những kẻ phải lìa bỏ quê hương. Được Giám đốc hãng Hàng không thế giới là Ed Daly ngỏ ý muốn tổ chức một cầu hàng không chở những đứa trẻ mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ, Martin xin phép Nhà Trắng thực hiện mục đích.
Graham Martin tuyên bố, cuộc di tản này "sẽ giúp đảo ngược ý kiến của công luận Mỹ về lợi thế của chính quyền miền Nam Việt Nam". Còn trong thư gửi cho bộ trưởng Nam Việt Nam phụ trách vấn đề tị nạn, Martin mong rằng cái cảnh hàng trăm em bé Việt Nam được người Mỹ nhận nuôi sẽ gây được cảm tình của toàn thế giới đối với người Nam Việt Nam.
Được Nhà Trắng bật đèn xanh, ngày 2/4, những viên chức chi nhánh cơ quan CIA báo tin mở cầu hàng không "cứu giúp từ thiện", để hai nghìn em bé Việt Nam trở thành con nuôi ở Hoa Kỳ, phù hợp với một luật về nhập cư.
Những người đàn ông chở hai trẻ em bị thương đến bệnh viện. |
Tuy nhiên, nhiều nhà bình luận thời đó thì cho rằng, về mặt nào đó, cầu hàng không trẻ em là một mưu đồ hậu chiến, bởi có rất ít em là người tị nạn mà phần lớn là những trẻ em đã ở trong trại mồ côi hàng năm trời. Nhưng sứ quán không đếm xỉa gì đến chi tiết nhỏ nhặt ấy.
Tướng Smith, tùy viên quân sự, tỏ ra đặc biệt vui vì nhận thấy sẽ có lợi như thế nào trong việc tản cư trẻ em mồ côi. Đó là một dịp rất tốt để cho về Hoa Kỳ một số đông nhân viên của phái bộ quân sự cải trang nữ y tá, người giặt giũ. Chỉ sau mấy giờ Nhà Trắng chấp nhận, ông đã ra lệnh cho các bà vợ, các nữ thư ký chuẩn bị lên đường.
Thảm kịch cạnh đường băng
Trưa 4/4, quanh những ngôi nhà của phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn có một sự náo nhiệt đặc biệt. Buổi sáng hôm ấy, một chiếc Galaxy C-5A của không quân, máy bay vận tải lớn nhất thế giới, hạ cánh, mang vật liệu chiến tranh cho quân đội Sài Gòn.
Trong khi người ta chở hàng, nhân viên phái bộ quân sự tập hợp 243 trẻ mồ côi, chở ngay đi Philippines cùng với 44 nhân viên phái bộ quân sự và một số người Mỹ khác. Đó là chuyến bay đầu tiên của cầu hàng không “Trẻ em”.
Chiếc phi cơ vận tải khổng lồ C-5A chở 243 trẻ em và một số người lớn, rời Sài Gòn, đang bay ra bờ biển, chợt người lái trông thấy ánh sáng đỏ nhấp nháy trên bảng, báo hiệu một cửa bị hỏng. Anh báo tin cho trạm kiểm soát sân bay, máy bay sẽ quay lại. Nó đang hạ xuống cánh đường băng, một tiếng nổ vang dội, một phần máy bay bị phá hủy, làm cho ca bin bên trong thiếu không khí. Phần lớn 50 trẻ em và người lớn ngồi trong đó chết ngay vì ngạt thở, một số bị bật tung ra ngoài, qua cửa không đóng được.
Việc đó in sâu mãi mãi vào trí nhớ những người được chứng kiến. Máy bay bị nạn rơi xuống và trượt xa 800m đến một phía thửa ruộng phía Nam Tân Sơn Nhất. Phần lớn những người thoát chết lúc máy bay nổ và rơi nay lại bị chết đuối. Máy bay lên thẳng của hãng Hàng không Mỹ đến ngay, chở những người sống sót và hấp hối về trạm cứu thương đặt trên đường băng.
Một nữ nhân viên CIA ra tiễn các em tả lại: Không thể biết chắc được những em đưa từ máy bay lên thẳng sang trạm cứu thương còn sống hay chết. Hầu hết đều phủ đầy bùn từ đầu tới chân. Mãi đến lúc đưa các em từ trạm cứu thương đến bệnh viện mới phân biệt được đứa sống, đứa chết.
Các nữ y tá đặt các em dưới vòi nước hoa sen, rửa người các em rồi nói: "Em này còn sống, em này đã chết. Một lát sau được mấy người Mỹ giúp đỡ, tôi xếp các em còn sống lên xe gíp và xe hơi đem trả các em về các trại mồ côi. Nhiều em sợ quá không còn khóc được nữa; nhiều em khác giống như những giẻ rách trong tay chúng tôi.
Tai nạn làm mọi người xúc động. Những người trong chúng tôi ở lại phòng làm việc của CIA buổi chiều và buổi tối hôm ấy, đều buồn rầu, lẳng lặng ngồi nghe đọc tên theo thứ tự A, B, C những người Mỹ chết từ sân bay Tân Sơn Nhất gọi về. Con số người chết lên đến mức làm cho tai nạn này trở thành tai nạn máy bay lớn thứ hai trong lịch sử ngành hàng không.
Hơn hai trăm trẻ em qua đời. Sống sót có một người, còn tất cả nữ nhân viên của phái bộ quân sự đều bỏ mạng. Và những cái chết ấy là do một cái cửa không được đóng kín. Nếu một chuyến bay tổ chức vội vàng gây ra tai nạn tày đình như thế này thì một cầu hàng không khổng lồ, tổ chức trong thời chiến sẽ nguy hiểm biết chừng nào!”
Tướng Smith rất đau buồn về thảm kịch này. Chính ông là người thiết tha yêu cầu cho nữ nhân viên người Mỹ đi với các em. Nhưng ông không chịu bỏ nhiệm vụ đã ấn định. Hôm sau, trong lúc những kíp của phái bộ quân sự bới tìm xác chết giữa những đống sắt thép của máy bay, ông lại cho hàng trăm trẻ mồ côi và những nhân viên không cần thiết lắm lên những máy bay vận tải khác tiếp tục di tản.
Đại sứ Martin không còn biết làm gì để có thể ổn định được tinh thần của nhân viên sứ quán về tai nạn xảy ra. Alan Carter, phụ trách cơ quan thông tin Mỹ, là người được ông giao việc đầu tiên. Hôm sau ngày xảy ra tai nạn, Carter viết một điện gửi về Nhà Trắng để báo tin: lộn xộn ngày càng lớn ở Sài Gòn sắp dần tới hoảng loạn.
Đọc bản sao bức điện ấy, Martin nổi giận, ông hét vào mặt Carter: "Ở đây không có hoảng loạn ! Chúng ta phải làm mọi cái để không gây hoảng sợ cho Nhà Trắng. Ông nói thêm: "Nếu Nhà Trắng hỏi tôi trước khi cho sử dụng chiếc máy bay C-5A này, thì tôi không cho phép. Và những trẻ em đó sẽ vẫn còn sống".
Báo chí Mỹ đưa tin về vụ máy bay C5A rơi |
Carter muốn nôn mửa khi đi từ phòng Martin ra. Đầu ông ta bối rối. Sao đại sứ lại khốn nạn thế, không những để trút trách nhiệm của mình về tai nạn này mà còn làm cho mọi người hiểu rằng chính những người như Carter, vội vàng, hấp tấp, cho là tình trạng đã khẩn cấp, phải chịu trách nhiệm về cái chết của các em. Từ đó, giám đốc cơ quan thông tin chỉ gọi dây nói thẳng cho Nhà Trắng để trao đổi tình hình. Anh không đếm xỉa đến phép tắc của đại sứ…