Chùa Bà Đanh - Ngôi chùa thiêng thờ Tứ Pháp gắn với truyền thuyết Phật mẫu Man Nương

(PLVN) - Chùa Bà Đanh tọa lạc trên diện tích 10ha nằm ở thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Chùa dựa lưng vào núi Ngọc, quay mặt hướng Nam, ba phía được con sông Đáy hiền hòa ôm trọn. Địa thế đẹp, cảnh quan sơn thủy hữu tình càng tôn thêm vẻ linh thiêng, huyền bí của ngôi chùa. 
Tượng Bà Đanh - tức Đại Thánh Pháp Vũ Tôn Phật ở chùa Bà Đanh
Tượng Bà Đanh - tức Đại Thánh Pháp Vũ Tôn Phật ở chùa Bà Đanh

Vì sao có câu thành ngữ “Vắng như chùa bà Đanh”?

Chùa Bà Đanh và Núi Ngọc nằm về phía Đông Nam xã Ngọc Sơn. Ba mặt khu di tích này có dòng sông Đáy bao quanh. Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 khu vực chùa Bà Đanh nằm tách ra xa khu dân cư. Tại đây cây cối um tùm nên vắng người qua lại. Mỗi khi dân làng có việc phải lên chùa vào buổi tối lại phải đốt đuốc và gõ chiêng gõ trống để xua đuổi thú dữ. Chính vì vậy dân gian truyền tụng câu: "Vắng như chùa Bà Đanh".

Trong nhà thượng đường của chùa Bà Đanh hiện thờ nhiều tượng như tượng Tam thế, tượng Ngọc Hoàng và thái thượng Lão Quân, tượng Bà Chúa Đanh. Pho tượng Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. 

Quang cảnh chùa Bà Đanh
Quang cảnh chùa Bà Đanh 

Chùa Bà Đanh cũng như nhiều chùa khác ở miền Bắc trong điện thờ còn có nhiều tượng Phật và tượng Bồ Tát. Ngoài ra, trong chùa còn có tượng của Đạo giáo như: Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu và các tượng Tam Phủ, Tứ Phủ của tín ngưỡng dân gian.

Nối giữa chùa Bà Đanh và núi Ngọc là một bãi rộng trồng cây lưu niên, chủ yếu là vải thiều, nhãn, tùy thời vụ có xen cả ngô lúa. Nằm hoàn toàn biệt lập với khu dân cư, trên núi, dưới sông, gần đền, gần chùa, núi Ngọc quả là một thắng cảnh của đất Kim Bảng, một địa điểm du lịch đầy hấp dẫn.

Năm 1994, Chùa Bà Đanh đã được Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhiều năm nay, người ta đã không còn thấy cảnh vắng vẻ, hiu quạnh ở ngôi chùa này, câu “vắng như chùa bà Đanh" trước đây giờ đã được cải biên thành: “Ngày xưa vắng ngắt vắng ngơ/ Bây giờ tấp nập như chùa Bà Đanh".

Ngôi chùa gắn với truyền thuyết Phật mẫu Man Nương

Chùa còn thờ Tứ Pháp - một sản phẩm tôn giáo hoàn toàn mang tính chất bản địa. Căn cứ vào ngọc phả và truyền thuyết còn truyền tụng trong nhân dân thì lịch sử nhân vật được thờ như sau:

Vào thế kỉ thứ II ở Mãn Xá, huyện Siêu Loại, Thuận Thành (Bắc Ninh) có gia đình ông Tu Định hay làm việc thiện nhưng khó về đường con cái, sau vì thành kính cúng lễ ở chùa nên sinh được một người con gái, đặt tên là Man Nương. Nàng là một phụ nữ tính rất ôn hòa, không thích lấy chồng chỉ thích tuần nhật niệm phật cầu kinh.

Tứ Pháp là danh từ để chỉ các Phật, Bồ Tát được dân gian coi như các nữ thần trong tín ngưỡng Việt Nam gồm: Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp.

Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì xuất hiện tín ngưỡng Tứ Pháp với truyền thuyết về Phật mẫu Man Nương.

Đến năm 18 tuổi khi nghe tin có một vị cao tăng tên là Khâu Đà La tu hành tại chùa Linh Quang thuộc đất Tiên Du, nàng liền xin cha mẹ cho tới chùa để học đạo.

Khâu Đà La vốn tâm từ bi liền nhận Man Nương vào học, gặp khi tiết hạ, sứ các nơi tập trung về ăn chay học pháp, nàng lo việc cơm nước sớm chiều.

Một hôm, đang đêm sư phụ khó ở, bèn gọi Man Nương đến thuốc thang. Nàng làm việc mệt quá ngủ quên ngay trước cửa phòng mà không biết. Dưới trăng sáng, Khâu Đà La vô tình bước qua người nàng.

Từ đó Man Nương có thai rồi sinh ra một khối đá tỏa ánh hào quang rực rỡ. Man Nương đem khối đá đó đến chùa Linh Quang gửi nhà sư. Sư phụ không chút chối từ cầm lấy khối đá đó rồi cho nàng về chùa Phúc Nghiêm tu hành như cũ. Một ngày kia Khâu Đà La mang khối đá đó đến một gốc cây đa lớn khấn rằng: "Kẻ tu hành này vốn vô tâm sao phải chịu nỗi oan này". Khâu Đà La vừa nói dứt, cây đa nứt ra một chỗ, nhà sư bỏ khối đá vào đó thì vật nứt biến mất.

Hơn mười năm sau, tự nhiên có một trận gió lớn làm đổ cây đa rồi quẳng ra sông. Cây đa trôi về đất Cổ Châu thì dừng, thuyền bè qua lại vô ý chạm phải đều mang tai vạ, Cao tăng, lực sĩ trong làng được phái đến để kéo cây nhưng không nổi.

Quang cảnh nên thơ sơn thủy hữu tình, trên bến dưới thuyền sơn thủy hữu tình ở Khu di tích chùa Bà Đanh, núi Ngọc
Quang cảnh nên thơ sơn thủy hữu tình, trên bến dưới thuyền sơn thủy hữu tình ở Khu di tích chùa Bà Đanh, núi Ngọc 

Kỳ lạ thay, khi nàng Man Nương đến tắm ở đoạn sông ấy, cây gỗ bỗng rập rình như con nhìn thấy mẹ. Man Nương ném dải yếm ra thì lập tức cây trôi vào ngay. Vì vậy Man Nương đã được phong làm hậu thần của chùa ấy. 

Một buổi trưa, nhà sư tụng kinh xong đi nghỉ. Còn đang mơ thì thấy có một vị thiên thần và bốn người đến trước mặt lạy tạ mà nói rằng: Chúng tôi là Tứ Pháp đã có tám chữ nét son ở trong cây gỗ, xin tạc thành tượng để thờ. Khâu Đà La từ khi thoát khỏi lụy trần, một hôm cho gọi Man Nương lại truyền cho câu thần chú để cầu mưa rất hiệu nghiệm. 

Từ đó khi gặp trời khô hạn, Man Nương lễ phật niệm chú. Nhờ vậy, mưa thuận gió hòa, lúa má tươi tốt, mùa màng bội thu. Man Nương thọ 80 tuổi, mất tại chùa Phúc Nghiêm. Từ đó, cứ đến ngày mồng 8 tháng 4 nhân dân Cổ Châu cũng như các nơi lại tổ chức làm lễ bái tổ.

Việc thờ thần ở chùa Bà Đanh cũng gắn liền với một truyền thuyết ở địa phương như sau: Trước đây ở vùng này luôn gặp mưa to gió lớn nên việc sản xuất rất khó khăn, mùa màng thất thu, thiếu đói kéo dài. Vào một ngày kia cả làng xôn xao việc thánh nhân báo mộng cho một cụ già trong làng rằng có một người con gái rất trẻ, xinh đẹp, đoan trang, khuôn mặt phúc hậu với vầng trán và đôi mắt thông minh truyền rằng: "Ta được thần cho về đây trông nom và chỉ bảo dân làng làm ăn".

Vì vậy, dân làng họp bàn lập chùa thờ bà. Các cố lão chọn khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa. Nơi ấy bấy giờ là một vạt rừng rậm rạp có nhiều cây cổ thụ, sát bờ sông là một hòn núi nhỏ nhô mình ra mặt nước, trong rừng rộn rã tiếng chim, quang cảnh thật là thần tiên.

Ngôi chùa ban đầu được xây dựng tranh tre nứa lá đơn sơ, đến năm Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông (1676-1680), khu rừng mới được mở mang quang đãng để xây chùa lại cho khang trang. Khu vực này cấm người dân làm nhà ở nên cảnh chùa càng thêm trang nghiêm, vắng vẻ.

Ngôi chùa nằm giữa đồi cây lâu năm quanh năm bóng mát, ba mặt là con sông Đáy bao quanh
Ngôi chùa nằm giữa đồi cây lâu năm quanh năm bóng mát, ba mặt là con sông Đáy bao quanh

Ngôi chùa được xây dựng ít lâu thì có một cây mít cổ thụ ở quanh chùa bỗng dưng bị gió to quật đổ. Dân làng đã đẵn lấy gỗ để tìm thợ giỏi về tạc tượng thờ trong chùa. Bỗng nhiên có một khách thập phương tìm đến chùa nói rằng mình làm nghề tạc tượng và được báo mộng đến đây. Người khách tả hình dáng và dung nhan người con gái đã báo mộng thì thấy giống hệt vị thần đã báo mộng cho cụ già trong làng.

Năm ấy gặp mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, tạc tượng gần xong thì dưới bến nước trước chùa có vật lạ, nửa nổi, nửa chìm, không trôi theo dòng nước, đẩy ra mấy lần lại thấy trôi trở lại. Thấy chuyện lạ, dân làng vớt lên xem thì hoá ra đó là một cái ngai bằng gỗ bèn rước ngay vào chùa.

Thật lạ lùng, pho tượng tạc xong thì đặt vừa khít vào ngai. Từ đó trong vùng mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, tiếng đồn Thánh Bà Bảo Sơn linh ứng lan truyền khắp nơi, khách thập phương về lễ rất đông. Những người làm nghề sông nước xuôi ngược qua đoạn sông này gặp mùa lũ đều lên chùa thắp hương cầu mong yên ổn.

Theo các nhà nghiên cứu, truyền thuyết về chùa Bà Đanh có đôi nét gần gũi với truyền thuyết Phật mẫu Man Nương, ở những chi tiết như cây gỗ trôi sông (Truyện Man Nương) và ngai gỗ trôi sông (truyền thuyết về Bà Đanh). Ở bản chất của vị thần cả hai nơi thờ đều là nữ thần nông nghiệp - vị thần làm nhiệm vụ điều hành thiên nhiên, tạo ra thời tiết thuận lợi phục vụ cho nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, vị thần này nằm trong hệ thống Tứ Pháp được thờ khá phổ biến ở các làng quê miền Bắc Việt Nam.

Đọc thêm