Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên
Theo học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất (TNHN) con người là một sinh vật trong vũ trụ (Nhân thân tiểu thiên địa) do đó, chịu mọi ảnh hưởng và chi phối của vũ trụ về nhiều mặt.
Trước tiên con người chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh tự nhiên đó là khí hậu thời tiết. Trong một năm có 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông và có sáu khí (Lục khí) gồm: Phong (gió), Hàn (lạnh), Thử (nắng), Thấp (ẩm) (ướt), Táo (khô ráo), Hỏa (nóng), sáu thứ khí này đi theo 4 mùa, tác động đến sức khỏe con người. Khi sức khỏe yếu (chính khí hư) 6 loại khí này sẽ trở thành nguyên nhân gây bệnh gọi là tà khí.
Căn cứ vào chu kỳ nhất định của thời gian và địa lý, áp dụng phương pháp thống kê, người cổ xưa đã xác định được những mùa nào hay có bệnh gì, nhất là bệnh truyền nhiễm. Ví dụ như: Bệnh Bại liệt thường gặp vào mùa xuân và cuối hè, sốt xuất huyết hay gặp vào tháng 7, 8… Nguy cơ chết vì đau tim cao nhất về tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc…Việc quy hoạch được thời gian tính của bệnh tật, giúp đưa đến những biện pháp phòng ngừa, phòng chống dịch một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy, dược liệu thấm nhập vào cơ thể con người cũng theo một chu kỳ riêng. Năm 1959 Halberg đã thí nghiệm cho chích Ouabain (một hoạt chất kích thích Tim) cho chuột nhắt, cho thấy, tỷ lệ chết ở các lô tiêm trong khoảng 8-12 giờ rất cao, trái lại, tỷ lệ chết ở lô chích lúc 24 giờ lại rất thấp. Hiểu rõ được thời gian tính của dược liệu, sẽ giúp đưa dược liệu vào cơ thể một cách chính xác hiệu quả ngay cả khi dùng liều nhỏ nhất.
Ảnh con người và mối quan hệ với thiên nhiên. |
Hoàn cảnh địa lý như đồng bằng, miền rừng núi, miền Nam, miền Bắc, phong tục, tập quán sinh hoạt, tín ngưỡng… cũng luôn gây ảnh hưởng đến sức khỏe cơ thể con người. Miền núi cao, do thiếu lượng Iốt từ biển mang vào, dễ phát sinh bướu cổ. Cuộc sống vội vàng, căng thẳng, của người dân thành thị dễ đưa đến các bệnh loét bao tử, loét tá tràng. Khẩu phần dư thừa mỡ đưa đến các chứng xơ mỡ động mạch, suy Tim vành… Miền rừng núi, đầm lầy, tạo điều kiện cho muỗi sống, dễ gây ra bệnh sốt rét, mùa khí hậu ẩm dễ gây bệnh phong tê thấp…
Bên cạnh việc chịu sự ảnh hưởng của tự nhiên, sức khỏe con người cũng chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xã hội. Điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội cũng tác động đến tư tưởng, tình cảm đạo đức của con người. Tại những nước người dân có trình độ cao, rất ít khi gặp các chứng bệnh hay lây nhiễm, thậm chí nhiều nước, bệnh lao phổi, phong hủi, ghẻ lở, hắc lào… hầu như không còn có tên trong sách thuốc của họ nữa. Ở những nước điều kiện kinh tế và văn hóa quá yếu kém, người ta thấy tỷ lệ các bệnh suy dinh dưỡng, bệnh về đường ruột rất cao.
Theo học thuyết TNHN, thái độ của con người cũng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cơ thể. Các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài, góp phần gây ra những sự xáo trộn, dẫn đến bệnh tật, vì thế, con người cần phải thích ứng, thích ứng với mọi hoàn cảnh, chế ngự và cải tạo thiên nhiên, xã hội để sinh tồn và phát triển. Muốn vậy, cần phải có sức khỏe, có sự hiểu biết để thích ứng với hoàn cảnh dưới nhiều hình thức phong phú từ cách nghĩ tích cực, cách làm việc tốt, lối sống đều phải hòa nhịp với tự nhiên, thời đại, có như thế mới sinh tồn và phát triển được.
Ứng dục học thuyết trong y học
Theo Lý luận về y học cổ truyền, học thuyết TNHN được ứng dụng trước tiên trong giai đoạn chẩn đoán. Cụ thể, thầy thuốc phải biết vận dụng học thuyết kết hợp với nhiều mặt và yếu tố bên ngoài (Lục khí : Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa) với yếu tố bên trong (vui, buồn, giận, lo, nghĩ, kinh, sợ, thất tình) nắm được thời điểm gây bệnh (theo mùa, theo Ngũ vận Lục khí…), hiểu được hoàn cảnh (giàu nghèo, địa dư, phong tục…).
Tuy nhiên, chủ yếu thầy thuốc phải nhận định rằng: Bệnh tật chỉ xảy ra do sự mất cân bằng âm dương làm nội tạng thay đổi, làm giảm sút sự đề kháng (chính khí hư) dẫn tới cơ thể không thể thích ứng được với ngoại cảnh, gây bệnh (tà khí thịnh).
Trong điều trị, thầy thuốc y học cổ truyền thường vận dụng học thuyết TNHN để một mặt cần giải quyết nguyên nhân gây bệnh (đuổi, trục tà khí ra), mặt khác, phải hướng dẫn người bệnh chú trọng đến việc nâng cao sức chống đỡ của cơ thể (phù chính khí). Ngoài ra, thầy thuốc cũng phải vận dụng học thuyết TNHN để chú ý đến hoàn cảnh tự nhiên (địa dư, khí hậu…) hoàn cảnh xã hội, kinh tế (giàu nghèo, lớn bé), thời điểm phát sinh bệnh… của người bệnh để chọn phương thuốc điều trị cho thích ứng : Uống thuốc, Châm cứu, tập Y võ dưỡng sinh…
Trong phòng bệnh, thầy thuốc luôn quan niệm đề cao phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, tránh để bệnh tật xảy ra rồi mới điều chỉnh, thầy thuốc luôn căn dặn bệnh nhân giữ và phòng sao cho bệnh tật không thể xảy ra hoặc nếu lỡ có xảy ra thì cũng giảm nhẹ hơn.
Theo đó, có hai cách phòng bệnh cơ bản gồm: Phòng bệnh thụ động như: ăn uống tốt, mặc ấm, giữ vệ sinh. Có lối sống sinh hoạt điều độ về lao động, tình dục… Phòng bệnh tích cực: thay đổi nếp sống lạc hậu, bỏ những tập quán mê tín. Rèn luyện thân thể, thể dục, thể thao, khí công, dưỡng sinh. Phương pháp rèn luyện sức khỏe đã được danh y Tuệ Tĩnh tóm kết trong hai câu thơ: “Bế tinh, Dưỡng khí, Tồn thần/ Thanh tâm, Quả dục, Thủ chân, Luyện hình“.
Từ 3 học thuyết cơ bản để vận dụng vào khám và điều trị bệnh bằng y học cổ truyền gồm: Âm dương, Ngũ hành và Thiên Nhân Hợp Nhất, Y học cổ truyền dân tộc đi đến quan niệm toàn diện, thống nhất, chỉnh thể trong công tác phòng bệnh, chẩn đoán và trị bệnh.
Người thầy thuốc phải thấy con người ở thể thống nhất toàn vẹn giữa các chức phận, tinh thần và vật chất, cá nhân và hoàn cảnh bên ngoài, để tìm ra các mâu thuẫn xáo trộn trong quá trình bệnh lý và giải quyết các mâu thuẫn đó bằng phương pháp tích cực và đúng đắn nhất.
Ngoài ra, Thiên ‘Ngọc Bản’ (Linh Khu 60) đề cập đến vai trò của con người trong vũ trụ cũng đã ghi: “Phù chân giả, thiên địa chi trấn dã, Kỳ bất khả tham hộ” (Dịch: Này, con người là qúy nhất trong trời đất, không thể không xứng đáng đứng giữa trời đất). Muốn xứng đáng đứng trong trời đất, phải biết hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ, với mọi người.
Hiện nay, theo Tổ chức y tế thế giới (OMS – WHO) thì sức khỏe được hiểu không chỉ là không bệnh tật mà còn bao hàm một cuộc sống thoải mái về tinh thần, thể chất và xã hội. Điều này cho thấy, người ta đã quan tâm đến con người một cách toàn diện (thể chất, tinh thần và môi trường xã hội). Điều này từ ngàn xưa cha ông chúng ta đã đề ra, ngày nay mỗi cá thể chúng ta đang cố gắng duy trì, phát huy, hoàn thiện hóa.