Nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử Việt Nam
Bà Nguyễn Thị Duệ hay Nguyễn Thị Du (có tài liệu gọi bà tên Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền), sinh năm 1574, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương. Từ thuở nhỏ, cô gái Nguyễn Thị Duệ tỏ ra rất sáng dạ, chưa đầy bốn tuổi đã nổi tiếng vì biết viết văn, làm thơ. Thời mới lớn, ở trong vùng có một cậu ấm thường xuyên đến ghẹo, Thị Duệ đã đọc chậm hai câu thơ: “Xá chi vàng đá hỗn hào/Thoảng đem cánh phượng bay cao thạch thành”. Lời thơ đanh mà sâu cay khiến cậu ấm nghe xong đã phải nhanh chóng đánh bài chuồn, không dám lai vãng đến ghẹo Duệ nữa.
Với bản tính hiếu học của mình, Nguyễn Thị Duệ đã theo nghiệp đèn sách. Theo ghi chép, khi nhà Mạc mở khoa thi, bà đã cải trang thành nam nhân để tham dự và đỗ đầu bảng.
Theo “Chuyện kể về các nhà khoa bảng”, khi tân trạng nguyên được vào cung dự yến tiệc, Vua Mạc Kính Cung rất bất ngờ khi biết tân khoa trạng nguyên là một cô gái. Mặc dù rất quý mến hiền tài và không trách tội Nguyễn Thị Duệ theo phép tắc nhưng vua vẫn không thể cho phép bà tiếp tục mang danh trạng nguyên. Vua chỉ có thể cho phép bà ở lại triều.
Nguyễn Thị Duệ sau đó được ở lại cung và phụ trách việc dạy học cho các phi tần. Sau một thời gian gặp gỡ, Vua Mạc Kính Cung phải lòng bà và lập bà làm phi, ban cho bà tước hiệu là Tinh Phi. Dân gian sau này còn gọi bà là bà chúa Sao. Vào năm 1625, khi quân của chúa Trịnh tiến lên Cao Bằng để đánh nhà Mạc, Nguyễn Thị Duệ bị bắt giữ. Thế nhưng thay vì lo sợ, bà lại rất bình thản. Và cũng nhờ tài đối đáp xuất sắc của mình mà Nguyễn Thị Duệ thoát tử tội.
Mến mộ tài năng của Nguyễn Thị Duệ, chúa Trịnh giao cho bà trọng trách trông coi việc học ở phủ chúa. Bà được chúa Trịnh vô cùng trọng dụng và sau này, Nguyễn Thị Duệ còn được phong làm Nghi ái quan.
Thời làm quan, Nguyễn Thị Duệ được coi trọng vô cùng, bà thậm chí còn được cấp nhiều mẫu ruộng để canh tác lấy huê lợi, giúp đỡ những học trò nghèo chăm chỉ. Tương truyền, để thúc đẩy phong trào học tập, bà đã cùng các bậc túc nho tổ chức giảng dạy và thi. Cách làm này của bà đã góp phần nâng cao việc giáo dục ở thời kỳ lúc bấy giờ. Tài năng của bà khiến người khác không khỏi nể phục. Phần lớn các kỳ thi Đinh, thị Hội thời đó đều qua tay bà chấm thi.
Không những tài năng, bà còn là người đức độ. Theo dân gian, trước đây, khi Nguyễn Thị Duệ còn nghèo khó, anh trai bà bị người trong làng của mình hại. Thế nhưng, sau khi có được vinh hoa phú quý, bà cũng không hề nghĩ đến thù riêng.
Sau này khi tuổi đã cao, Nguyễn Thị Duệ lui về quê ở ẩn. Bà tiếp tục đọc sách và chỉ bảo sĩ tử trong làng. Những đóng góp quan trọng của bà trong giáo dục đã giúp bà nhận được hậu đãi lớn từ triều đình. Dù vậy, nữ trạng nguyên vẫn sống cần kiệm và dành phần lớn những bổng lộc của mình để giúp đỡ người nghèo.
![]() |
Tượng thờ Trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ. |
Những câu thơ của bà trong bài Gia ký vẫn được lưu truyền đến ngày nay: “Kém gì một chút đảo điên/So le Bạc Thị vốn duyên Hán hoàng/Nữ nhi dù đặng có lề/Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên/Vũ Phương Đề cũng khen ngợi bà: “Lễ sư thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương”.
Tên của trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ được đặt tại Văn Miếu Mao Điền
Tên của nữ trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ cũng được đặt tại Văn Miếu Mao Điền cùng nhiều danh nhân, học sĩ danh tiếng khác. Tài năng, đức độ người phụ nữ như Nguyễn Thị Duệ quả là hiếm có khó tìm trong lịch sử Việt Nam.
Nằm bên đường quốc lộ 5, cách thành phố Hải Dương 15km về phía Bắc, thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), Văn Miếu Mao Điền được biết tới là một trong số ít văn miếu hàng tỉnh còn tồn tại ở Việt Nam. Lịch sử của văn miếu bắt đầu từ hơn 500 năm về trước.
Dưới triều Vua Lê Thánh Tông, triều đình cho mở thêm một số trường học nữa ngoài trường Quốc Tử Giám ở kinh thành để đẩy mạnh phát triển Nho giáo. Ở xứ Đông (gồm toàn bộ tỉnh Hải Dương, thành phố Hải Phòng, huyện Đông Triều của Quảng Ninh) Văn Miếu Mao Điền được xây dựng vừa làm nơi thờ các bậc tiên hiền Nho học, vừa làm trường thi của vùng.
Từ giữa thế kỷ 15 cho đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn, nơi đây trở thành nơi thi hương của vùng trấn Hải Dương. Đặc biệt trong thời Mạc (1527 - 1593) đã bốn lần tổ chức thi đại khoa ở Mao Điền.
Qua Tam quan là cây gạo cổ thụ hơn 200 tuổi in bóng xuống hồ nước xanh mát làm tôn lên vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch cho văn miếu. Tương truyền cây gạo này được trồng vào năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801), thời điểm tái thiết Văn miếu trấn Hải Dương. Hai bên tả, hữu trước dãy điện thờ chính là lầu chuông Đồng nặng 1042kg, lầu trống Đại. Lầu chuông, lầu trống được thiết kế theo phong cách truyền thống hai tầng tám mái toàn bằng gỗ lim, tuy giản dị nhưng lại rất mềm mại, uyển chuyển.
Dãy nhà chính của Văn Miếu gồm hai lớp quay về hướng Tây, với 7 gian, mái cong vút, chạm trổ hình rồng, phượng, áp sát vào nhau. Nhà trong thờ Khổng Tử. Nhà ngoài là nơi tụ hội bái lễ của các bậc quan trường học giả và đặt bàn thờ và bát nhang công đồng. Hai bên vách treo bảng danh sách 637 vị tiến sĩ quê ở trấn Hải Dương trong thời đại khoa cử Việt Nam.
Nhìn vào bảng danh sách đồ sộ ấy ta không khỏi cảm phục tinh thần hiếu học của người dân xứ Đông. Hai bên là hai dãy nhà giải vũ 5 gian đối diện nhau, do nằm ở hai hướng Đông và Tây nên người dân nơi đây vẫn quen gọi là nhà Đông vu, Tây vu.
Hai di vật cổ nhất của Văn Miếu Mao Điền được đặt ở dãy nhà ngoài là chiếc lư hương bằng đá trên bàn thờ công đồng và khánh đá từ thời Tây Sơn. Phía trong hậu cung của văn miếu thờ cả thảy chín bài vị. Chính giữa thờ Khổng Tử, ông tổ của đạo Nho. Lần lượt hai bên là Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Sư Mạnh, Vũ Hữu, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Thị Duệ.
Trong cách bài trí thờ tự cũng có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Khổng Tử là ông tổ đạo nên được thờ ở chính giữa, bên trái là Chu Văn An, một người thầy mẫu mực trong truyền thống đạo Nho nước ta. Những người còn lại đều là những người con xuất chúng của trấn Hải Dương. Đặc biệt là trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ, nữ trạng nguyên duy nhất của nước Việt.
![]() |
Lễ chữ tại lễ hội Văn Miếu Mao Điền. (Ảnh trong bài: VMMĐ) |
Từ thời Tây Sơn, việc tế lễ và học tập tại Văn miếu Mao Điền đã diễn ra đông vui, nhộn nhịp. Hằng năm, trấn Hải Dương tổ chức lễ tế Khổng Tử. Các quan đầu phủ, đầu trấn cùng các cử nhân, tiến sĩ đều tụ họp về đây tham gia lễ tế trọng thể, nêu cao truyền thống hiếu học và tôn sư, trọng đạo của người tỉnh Đông.
Cứ vào tháng 2 âm lịch hàng năm, tỉnh Hải Dương lại tiến hành mở hội Văn miếu Mao Điền, để mọi người có thể trở về đây chiêm bái, tưởng nhớ các bậc danh tài và thêm tự hào về truyền thống hiếu học của người nước Việt.
Phần lễ diễn ra trong không khí trang nghiêm với bài diễn văn khai hội và văn tế nêu bật vai trò, giá trị, ý nghĩa lịch sử, văn hóa của Văn Miếu Mao Điền và truyền thống hiếu học của xứ Đông; ca ngợi công đức to lớn của Đức thánh Khổng Tử và các bậc tiên hiền được thờ tại đây như: Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Đại danh y Tuệ Tĩnh, Nhà giáo Chu Văn An, Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quan nhập nội hành khiển Phạm Sư Mạnh, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, Thần toán Vũ Hữu và nữ Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ.
Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hóa thể hiện tinh thần hiếu học, văn hóa truyền thống của người dân Hải Dương như lễ tế chữ "tôn sư trọng đạo", mở cửa nhà truyền thống giáo dục - đào tạo; các hoạt động biểu diễn nghệ thuật như: hát quan họ, biểu diễn rối nước.
Ngoài trò chơi dân gian truyền thống như: nhảy bao bố, chọi gà, kéo co, các cuộc thi ở Văn miếu Mao Điền luôn khiến mọi người trầm trồ, thích thú. Nó không chỉ mang tính giáo dục mà còn có tính cộng đồng cao, thu hút đông đảo lượng người tham gia như thi: vở sạch chữ đẹp, cờ tướng, cờ người...
Chọn lựa các điểm đến hấp dẫn nhất Việt Nam, năm 2014, Trung tâm Kỷ lục Việt Nam đã xếp Văn miếu Mao Điền vào danh sách 5 văn miếu tiêu biểu đánh dấu nền học vấn lâu đời ở Việt Nam.