Liệt nữ trong lịch sử

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Quan niệm của Nho giáo về người phụ nữ tiết hạnh, trinh nữ, tiết phụ, liệt nữ có ảnh hưởng sâu nặng trong đời sống văn hóa Trung Quốc, Đông Á và chiều dài lịch sử Việt Nam. Đã có những câu chuyện người xưa vinh danh những người đàn bà này.
Một phiên chợ ở Bắc Kỳ, khoảng năm 1890. (Nguồn: ST)
Một phiên chợ ở Bắc Kỳ, khoảng năm 1890. (Nguồn: ST)

Sự cương trực, thủy chung của phụ nữ được tôn trọng

Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội) liệt nữ là người “con gái cứng cỏi chết vì tiết nghĩ không chịu nhục thân”. Trong Hán Việt từ điển Đào Duy Anh định nghĩa liệt nữ là “người đàn bà kiên trinh không chịu khuất tiết”. Quan niệm này ở Trung Hoa cũng rất phổ biến, xã hội phong kiến gọi người phụ nữ không chịu cải giá, hoặc không chịu bị làm nhục mà tuẫn thân là liệt nữ. Theo Tiến sĩ văn học, nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Văn Hưng, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định “mô hình xã hội nam quyền là một hiện tượng có tính phổ biến nên việc phụ nữ chết để bảo vệ trinh tiết, thể hiện sự phục tùng quyền lực của đàn ông hoặc thể hiện lòng chung thủy”.

Trong sử sách nước nhà, “liệt nữ” được ghi nhận từ năm 1044 tên là My Ê. Đến thời Hậu Lê việc khen, vinh danh những trinh liệt, tiết nghĩa, không còn dè dặt như trước đó mà phổ biến hơn. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Ngô Sĩ Liên cho biết: “Tháng 3 năm 1437, nhà Lê “nêu biển biểu dương liệt nữ Lê Thị… tên Liễn, người làng Phúc Lâm, lộ Quốc Oai Trung, là vợ của Túc vệ Lương Thiên tích đời Hồ, có nhan sắc, góa chồng sớm, không có con, thờ phụng nhà chồng, cúng lễ chồng đến khi chết”.

Tiếp đó các sự kiện của nhà Hậu Lê trong việc vinh danh và giáo huấn dân chúng về hình ảnh người phụ nữ đẹp, khí tiết, như việc biểu dương tiết phụ vợ của Nguyễn Văn Điều năm 1456; ban pháp Huấn dân đại cáo cho cả nước vào năm 1461; Ban biểu ngạch cho tiết phụ Nguyễn Thị Bồ ở xã Đại Hữu Lệ, huyện Thanh Trì vào năm 1463; đôn đốc sửa đổi phong tục ở dân gian vào năm 1465; “sai sứ thần đến các huyện trong nước biểu dương người tiết nghĩa” vào năm 1498;

Trong luật lệ cũng có quy định chặt chẽ về hôn nhân. Năm 1499, nhà Lê ban hành Huấn điều gồm 24 điều, trong đó có một số điều liên quan đến chuyện nam, nữ, giá thú. Cũng trong năm này vào tháng 8, Vua Lê Hiến Tông còn xuống chiếu yêu cầu từ thân vương đến dân chúng “không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ, để cho phong tục được thuần hậu” (theo Đại Việt sử ký toàn thư).

Bức "Thiếu nữ Sài Gòn" của nhiếp ảnh gia John Thomson, một trong những tấm ảnh đầu tiên được chụp ở Việt Nam, vào khoảng năm 1867 - 1868.

Bức "Thiếu nữ Sài Gòn" của nhiếp ảnh gia John Thomson, một trong những tấm ảnh đầu tiên được chụp ở Việt Nam, vào khoảng năm 1867 - 1868.

Trong thời đại này có nhiều loạn lạc về chính trị ở thời Hậu Lê, rồi Quang Trung tiến quân ra Bắc… có nhiều chuyện về tiết phụ rất cảm động. Phan Thị Thuấn (người Can Lộc, Hà Tĩnh) là phu nhân thứ 3 của tướng quân Ngô Cảnh Hoàn, người đã chết theo chồng trên sông Thúy Ái vào năm 1786. Cuộc đời bà gắn liền với giai đoạn lịch sử đầy biến động cuối thời Lê - Trịnh. Tấm gương hy sinh theo chồng của bà được triều Nguyễn tôn vinh qua văn bia “Lê triều tiết liệt phu nhân Phan thị chi từ” trở thành di sản văn hóa - lịch sử.

Trong Đại Nam liệt truyện có kể chuyện Phan Thị Trang, người huyện La Sơn, trấn Nghệ An, năm 17 tuổi, cha mẹ nhận lời gả chồng, chưa kịp cưới thì người chồng chết đuối. Thị nghe tin nói với bố mẹ xin về chịu tang. Khi đưa tang mặc áo gai để trong 3 năm, chân không ra đến hàng chợ. Hết tang, có người cầu hôn, mẹ chồng khuyên cải giá. Thị không nghe, bèn lập cháu chồng làm con nối. Mẹ chồng chết, Thị ma chay theo lễ, giữ trọn tiết nghĩa 37 năm, người đều khen ngợi. Năm Minh Mạng thứ 8, nêu khen biển ngạch ở cửa là “trinh tiết khả phúng” (trinh tiết đáng làm gương).

Hay chuyện Trương Thị Vân ở Nam Định. Năm 20 tuổi gả cho Vũ Chiêu, sinh 1 trai, được 3 năm thì chồng chết. Có tên cường hào thích nhan sắc của Vân, muốn ép lấy. Thị thề không tái giá, lấy dao rạch mặt, tên cường hào kia không đoạt được. Vua Minh Mạng nêu khen biển ngạch…

Nhà Nguyễn vinh danh liệt nữ

TS Phạm Văn Hưng cho biết thêm, dưới thời nhà Nguyễn, hệ thống nhân vật có liên quan đến vấn đề trinh tháo (trinh nữ, tiết phụ, liệt nữ) thường được gọi chung là “tiết phụ” và dường như chỉ có danh hiệu “tiết phụ quyên sinh” và “trinh nữ” được quy định cụ thể trong Lệ nêu thưởng thọ dân, thọ quan, nghĩa phu, tiết phụ, trinh nữ, hiếu tử, thuận tôn… sửa đổi năm 1866.

“Tiết phụ quyên sinh” là từ chỉ người phụ nữ sau có người nào khi chồng chết (không kể có con hay không) mà quyên sinh (như thắt cổ, tự vẫn, nhảy xuống sông, xuống giếng) cho vẹn tiết, có đủ người nhà chồng và hương lý bảo chứng khai rõ, do quan địa phương xét hỏi kỹ càng sự trạng đích xác, thưởng cấp cho một tấm biển, làm nhà riêng cho.

“Trinh nữ”, con gái chưa đi lấy chồng, kiên quyết giữ tiết, không chịu để cho kẻ cuồng bạo làm nhơ nhuốc, có thương tích làm bằng chứng, không kể có chết hay không, thưởng cấp cho tấm biển, nhà nước làm nhà riêng cho.

Thời Minh Mạng, nhà Nguyễn đã chú trong vinh danh phụ nữ. Nhiều liệt nữ được ngợi ca về tấm gương khảng khái, tiết hạnh. Nhà Nguyễn giao cho bộ Lễ thưởng cho người sống lâu, người tiết nghĩa.

Ảnh chụp một thiếu nữ thuộc tầng lớp giàu có, đội chiếc nón lớn làm bằng lá (nón Ba Tầm), miền Bắc, năm 1915. (Ảnh màu nguyên bản của Léon Busy)

Ảnh chụp một thiếu nữ thuộc tầng lớp giàu có, đội chiếc nón lớn làm bằng lá (nón Ba Tầm), miền Bắc, năm 1915. (Ảnh màu nguyên bản của Léon Busy)

Dưới thời Tự Đức, năm 1848 trong Đại Nam thực lục có nêu việc triều đình bắt đầu định niên hạn cho những đàn bà thủ tiết: “Tiết phụ nào từ 25 tuổi trở xuống, goá chồng sớm mà giữ tiết, thì mới được ghi vào danh sách tâu lên; từ 26 tuổi trở lên thì không chuẩn làm danh sách tâu lên nữa, để có định lệ”. Đến năm 1856, triều đình lại quy định ngặt nghèo hơn, nói rõ “từ đây về sau những người ở goá mà tuổi đến 55 trở lên, mới được tâu xin”. Sau này còn có xếp hạng “ưu, bình thứ” dành cho người nổi tiếng tiết hạnh. Năm 1891, Đại Nam đồng văn nhật báo ra đời, Vua Thành Thái cho in lên báo truyện con hiếu, cháu hiền, nghĩa phu, tiết phụ, danh nho, nghĩa sĩ…Trong Đại Nam thực lục, từ sự kiện biểu dương Nguyễn Thị Kim (1804) đến thời điểm kết thúc Đại Nam thực lục - Chính biên Đệ thất kỷ (1925), trong vòng 120 năm, nhà Nguyễn đã biểu dương 310 tiết phụ, liệt nữ. Nổi bật nhất là trong đời Vua Minh Mạng và Tự Đức.

Thời nhà Nguyễn còn biết cách vinh danh các liệt nữ để khẳng định giá trị phong hóa của thời đại mình. Phạm Đình Hổ từng than thở nhiều về sự suy đồi phong hóa thời Lê mạt trong Vũ trung tùy bút, thì dưới thời Tự Đức, nhà vua đã làm thơ vinh Nguyễn Thị Kim (Lương Tài, Bắc Ninh) liệt nữ đầu tiên dưới triều Nguyễn để đối trọng với nhà Thanh: “Một mai tuyệt thực mà tuẫn tiết/Phương danh ngàn thuở sử còn ghi/Lớn thay đế nghiệp chủ phong hóa/Quyền thuật triều Thanh há sánh bì” (Thơ văn Tự Đức - NXB Thuận Hóa).

Trong Ngự chế Việt sử tổng vịnh, Tự Đức viết tới 5 bài về liệt nữ, đề vịnh My Ê, Châu thị, Phan Thị Thuấn và riêng Nguyễn Thị Kim vịnh tới 2 bài. Nguyễn Thị Kim uống thuốc độc tự tử, nhưng Tự Đức viết thành “tuyệt thực” (bỏ ăn). Ông muốn xây dựng một hình tượng liệt nữ đẹp, khẳng định sự vượt trội về mặt phong hoá của nhà Nguyễn so với nhà Thanh.

Sau này, khi giao lưu với văn hóa phương Tây, nhà Nguyễn đã có cái nhìn linh động hơn với tiết phụ, gìn giữ tiết hạnh, như ban cho “ruộng khuyến tiết”. Triều đình cũng nêu rõ nhiệm vụ của Sở Dưỡng tế, Nhà Dưỡng tế để chăm lo đời sống cho người quan, quả, cô, độc “chớ để cho họ phải phiêu lưu” hay “không để cho đến nỗi mất nhờ”. Khi phong trào Âu hóa, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian như Phan Kế Bính, Phan Khôi… cho rằng việc nêu khen trinh tiết là một tục lệ nghiệt ngã không còn hợp thời nữa. Nhưng đó là chuyện khác, sẽ bàn sau.

"Gương liệt nữ" được nhạc sĩ Lam Phương sáng tác năm 1997 nhưng chưa từng công bố. Đến năm năm 2017, nhạc sĩ Lam Phương đã giao cho Bến Thành Audio Video 10 tác phẩm mới, trong đó có bài "Gương liệt nữ". Bài hát đã được Cục Nghệ thuật biểu diễn cấp phép phổ biến vào năm 2018.

"Gương liệt nữ" như một câu chuyện cổ được kể bằng âm nhạc, mang đậm màu sắc cổ điển. Phần đầu của ca khúc là giai điệu trữ tình, sâu lắng, kể câu chuyện nàng Tô Thị “thân dù hóa đá còn mong chồng về”. Phần hai của tác phẩm với giai điệu hào hùng, ca ngợi tấm gương Hai Bà Trưng “má hồng đâu kém tài trai, ngoài chăm lo việc nhà, bên chồng chiến đấu đường xa, giữ từng tấc đất làng ta...”.

MV "Gương liệt nữ" được phát hành trên nền tảng Youtube, Spotify… do ca sĩ Duyên Quỳnh, Quán quân cuộc thi Người kể chuyện tình 2019 thể hiện. Cô hiện đang là ca sĩ của Nhà hát Giao hưởng Nhạc Vũ Kịch TP.HCM,

Đọc thêm