Chuyện về những người phụ nữ Việt Nam tại Morocco

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Ngôi làng nhỏ có tên Al - Shinwa ở tỉnh Kenitra, có 7 gia đình với vợ là người Việt Nam kết hôn cùng chồng là công dân Morocco (Maroc). Những người chồng của họ từng là hàng binh hoặc lính đào ngũ gia nhập lực lượng Việt Minh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chiếc cổng Marocco tại Ba Vì (Hà Nội).
Chiếc cổng Marocco tại Ba Vì (Hà Nội).

Từ chiếc cổng hữu nghị Việt Nam - Marocco...

Vương quốc Morocco và Việt Nam đều từng là thuộc địa của Pháp. Sau Thế chiến thứ 2, nhiều thanh niên Morocco bị thực dân Pháp bắt đi lính và đưa sang chiến trường Việt Nam để tham gia vào chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954). Những người lính này hầu hết đầu xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ trong xã hội. Họ bị bắt buộc phải lên đường để kiếm sống cho bản thân và gia đình. Những chàng trai Marocco sang Việt Nam khi đó cũng mới tuổi mười tám, đôi mươi.

Khi những người này đến Việt Nam cũng là lúc bùng nổ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc tại Morocco. Và khi sang Việt Nam, họ thấy thật vô nghĩa khi đứng trong hàng ngũ của đội quân xâm lược, phải cầm súng bắn vào những người dân đang đấu tranh vì quyền lợi chính đáng để được sống trong độc lập, tự do.

Bà Bóc (bên trái) và bà Hiền Gái chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi nhớ Việt Nam.Bà Bóc (bên trái) và bà Hiền Gái chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi nhớ Việt Nam.

Ngay từ cuối những năm 1940, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Morocco đã cử ông M’hamed Ben Aomar (tức anh Mã) - một chiến sĩ cộng sản đầy nhiệt huyết sang công tác tại Việt Nam để tập hợp các hàng binh và lính đào ngũ gia nhập lực lượng Việt Minh. Nhờ sự hỗ trợ từ phía Morocco, năm 1953, một số binh lính Morocco đã theo Việt Minh để chống lại thực dân Pháp.

Bởi vậy, khi chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, các chiến sĩ cách mạng đã được lệnh không giết những người lính Morocco. Có nhiều câu chuyện kể lại rằng khi bộ đội Việt Minh tấn công vào những cứ điểm của Pháp vào ban đêm, những người lính Morocco đang ngủ bật tỉnh dậy vô cùng hốt hoảng và lo sợ bị giết, các anh bộ đội Việt Nam đã đưa tay ra hiệu sẽ không giết họ và còn chúc họ ngủ ngon.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 300 chàng trai Marocco cùng 100 công nhân Việt Nam tới vùng núi Ba Vì khai hoang, mở nông trường. Từ đó, một ngôi “Làng Morocco” được hình thành. Họ kết hôn với các cô gái Việt Nam và sinh ra những người con lai mang hai dòng máu Việt Nam và Morocco.

Ông Mohammed Allam và vợ Nguyễn Thị Nhung.

Ông Mohammed Allam và vợ Nguyễn Thị Nhung.

Quãng thời gian 1956-1960 sinh sống ở Ba Vì, họ đã xây dựng Cổng Morocco như một công trình biểu tượng cho tình yêu dành cho Việt Nam, thể hiện mong muốn coi Việt Nam như quê nhà. Chiếc cổng được xây dựng theo phong cách kiến trúc Morocco gọi là “Bab Al-Maghariba”. Chiếc cổng mang trong mình thông điệp về niềm hy vọng hoá giải các cuộc xung đột, kiến tạo hoà bình và xây dựng tình đoàn kết giữa các dân tộc, giữa Morocco và Việt Nam.

Năm 1972, chính quyền Morocco hồi hương số hàng binh trên. Qua nhiều thế kỷ, hầu hết các công trình được các hàng binh xây dựng đều bị phá hủy, chỉ còn Cổng Morocco còn nguyên vẹn. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 11/2008, Thủ tướng Morocco Abaddi Nejaned đã đến thăm Cổng Morocco. Bên cạnh chiếc cổng chào, Đại sứ quán Morocco đã cho dựng một tấm bia ghi lại lịch sử của di sản này với lời kết: “Cánh cổng này đã nhiều năm chống chọi lại với sự tàn phá của thời gian, là tài sản chung, biểu tượng cho tình đoàn kết giữa con người với con người”.

... tới ngôi làng Việt giữa lòng Marocco

Khi trở về tổ quốc, Vua Hassan II lúc đó đã cho những hàng binh lựa chọn hoặc là trở về quê cũ làm ăn, hoặc là tập trung vào một khu đất nông nghiệp màu mỡ mà Vua Hassan II dành cho ở vùng Sharardat Bini Hussein thuộc miền Tây Morocco.

Vốn xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo và khi ở Ba Vì cũng làm nghề nông, họ đã lựa chọn lấy đất ở Sharadat Bini Hussein làm nơi sinh sống và họ đã lập một “Làng Việt Nam” tại đây. Với phẩm chất cần cù, chịu khó, không khuất phục trước nghịch cảnh, những người phụ nữ Việt Nam khi đó đã cùng chồng biến mảnh đất hoang Sharadat Bini Hussein “sản sinh” ra lương thực và của cải để nuôi sống gia đình.

Những phụ nữ Việt theo chồng về Marocco đều làm nông nghiệp để sinh sống.

Những phụ nữ Việt theo chồng về Marocco đều làm nông nghiệp để sinh sống.

Họ đã tiến hành cải tạo đất, trồng lúa, trồng cây bạch đàn để lấy gỗ và cây ô liu để lấy dầu, cam... xung quanh làng. Họ chăn nuôi cừu, dê, bò, gà và làm nghề mộc. Bà Hiền Gái là một trong những người phụ nữ Việt theo chồng về Morocco, sau hơn 50 năm, cô gái đôi mươi năm nào đã lên chức bà. Giờ đây các con cái của bà đã trưởng thành và đi làm ăn xa nhưng bà vẫn gắn bó với mảnh đất này vì ở đây bà có cảm giác xa đất mẹ. Bà vẫn hàng ngày lao động và không quên trồng một cây đào để làm bạn báo hiệu Tết đến xuân về.

Đặc biệt, khi cùng nhau sang xứ người, những cô dâu Việt ở đây vô cùng đoàn kết. Bằng chất giọng Việt rành rọt, bà Hiền Gái tự hào khoe rằng: “Chúng tôi sống như chị em trong cùng một nhà vậy, rất đoàn kết. Nếu không đoàn kết thì sao chúng tôi có thể sống với nhau đến tận bây giờ? Bây giờ mỗi dịp Tết, nghỉ hè con cháu của chúng tôi đều về đây, mỗi lúc như thế thì vui lắm”.

Điều đó có được là bởi dù đã nửa thế kỷ nhưng vẫn gìn giữ những nét văn hóa tốt đẹp của Việt Nam vẫn được họ gìn giữ và dạy bảo con cháu. Điển hình trong đó là truyền thống hiếu thảo. “Tôi là vẫn giữ truyền thống của Việt Nam đó là chữ hiếu. Người ta nói rằng có ơn bố mẹ thì mới có trời. Thế phải dạy các con biết Tổ quốc của mình là gì, ông cha để lại cho mình những gì. Và những thầy cô của tôi đã dạy tôi nên người như thế nào thì tôi đã dạy lại cho con cháu mình như thế”, bà Kim Lan chia sẻ.

Bà Hiền Gái bên cây đào trồng trong vườn để vơi nỗi nhớ Việt Nam.

Bà Hiền Gái bên cây đào trồng trong vườn để vơi nỗi nhớ Việt Nam.

Còn ông Mohammed Abdul Salam, một cư dân từng tham gia chiến đấu ở Việt Nam kể rằng, hồi thanh niên ông làm nghề chăn cừu ở vùng Had Kurat. Sau đó ông bị Pháp bắt lính đưa sang chiến trường Việt Nam và ném vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhớ về quãng thời gian đó, ông ngậm ngùi: “Khoảng thời gian đó đối với tôi chẳng có gì là vinh quang cả. Tất cả chỉ là dĩ vãng...”.

Ông Mohamed Abdul Salam nói sõi tiếng Việt. Bà Uyên, vợ ông đã sinh cho ông tất cả 10 người con, trong đó có 6 người được sinh ra tại Việt Nam. Những người con, người cháu của họ lớn lên đã lập gia đình với người Morocco ở làng bên hoặc ở ngay trong làng.

Dù vậy, những người phụ nữ Việt Nam ở đây chưa bao giờ vơi nỗi nhớ về đất mẹ. Tại ngôi làng này, ngôi vườn của bà Bóc được nhiều người hay ghé tới thăm bởi nó có nhiều loại cây trái của Việt Nam như na, cam, quýt... Bà trồng để kiếm thu nhập cho gia đình nhưng hơn hết đối với bà là để được lao động, để vơi đi nỗi nhớ về quê cha đất mẹ. Tuy vậy, mỗi mùa cam chín là lòng bà lại xốn xang. “Lấy chồng thì phải theo chồng nhưng vẫn nhớ Việt Nam”, giọng bà Bóc nghẹn lại.

Cũng như bà Bóc, bà Trịnh Kim Chi cũng chẳng giấu được những giọt nước mắt và sự nghẹn ngào khi nhắc về Việt Nam: “Đi đâu thì đi thì cũng phải nhớ quê hương đất nước. Đi đâu thì đi thì cũng phải nhớ người của mình...”.

Đọc thêm