Có còn ai mong đợi Tết không?

(PLVN) - Câu trả lời chắc chắn là có, nhiều người lắm. Mặc cho những tranh cãi không hồi kết về việc có nên bỏ Tết hay không khi mà Tết cổ truyền nhạt đi không còn như xưa nữa, thì Tết vẫn cứ đến, và những chộn rộn ngày cuối năm, những bình yên đón năm mới, những quây quần sum họp vẫn thế… Tết nhạt hay đượm, là ở trong tâm mỗi người, chỉ cần chúng ta biết “trở về”…
Tết rộn rã, náo nức trong trái tim mỗi người.
Tết rộn rã, náo nức trong trái tim mỗi người.

Tết xưa thương nhớ

Tục ngữ Việt Nam có câu “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Do đó, cho dù nhà có nghèo thế nào thì đến Tết, nhà nhà vẫn phải sắm sanh đủ đầy, ít nhất là những cái cơ bản của Tết như: Bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành, giò chả, xôi gấc,...

Trong ký ức nhà báo Ngô Bá Lục, ở xứ Bắc, vào vụ cuối năm, công việc cày cấy đã xong, trời mùa đông lạnh giá, lại thêm lắc rắc mưa phùn là tiết trời điển hình của Tết. Cuối Đông, đầu Xuân, vì thế cái lạnh tái tê sẽ được thay bằng sự ấm áp, báo hiệu một mùa cây cối đâm chồi nảy lộc.

Với hình thái thời tiết như thế, nên phiên chợ Tết ở Bắc Bộ, thấm đẫm những hình ảnh của mùa Đông, đó là những chiếc áo bông in hoa cà tím của bà, là những chiếc khăn nâu của mẹ, là chiếc áo trấn thủ của cha, những chiếc mũ bông sắc màu rực rỡ của những đứa trẻ.

Những thứ trên bàn thờ không thể thiếu một hộp mứt, chai rượu chanh màu nước vàng sánh, nải chuối, hai quả bưởi, hai cây mía, một túi kẹo lạc và không thể thiếu vài bánh pháo Bình Đà.

Hỏi trái tim nào mà chẳng tan chảy rưng rưng khi bắt gặp những hình ảnh này?
Hỏi trái tim nào mà chẳng tan chảy rưng rưng khi bắt gặp những hình ảnh này? 

Gạo nếp, đỗ xanh thường được các bà các mẹ tích luỹ sau vụ gặt, những hạt nếp trắng tinh, tròn mẩy sẽ được cất trong chum, còn đỗ xanh, thường được cất cẩn thận trong những chiếc lọ sành. Gia đình nào không có nếp ngon, đỗ chắc hạt sẽ phải ra chợ mua; nhưng thường, các bà các mẹ rất quan tâm đến việc này, thế nên đa số các gia đình đều tích luỹ gạo nếp, đỗ xanh cho việc gói bánh chưng Tết, rất ít nhà phải mua ngoài chợ. Ngoài ra, các bà các mẹ không thể quên mua các món “bắt buộc” như măng khô, miến, mộc nhĩ, nấm hương, mắm, muối, hạt tiêu,... để phục vụ mâm cỗ 3 ngày Tết.

Có lẽ trong ký ức của những đứa trẻ, thì pháo chính là thứ điển hình nhất của một cái Tết miền quê. Bọn trẻ con có thể không cần hoa quả, chả cần bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành... chúng chỉ thích pháo, với chúng, pháo là Tết và Tết chính là pháo. Và nữa, các phiên chợ Tết ở làng quê sẽ họp vào ngày 28, 29 giáp Tết.

Cũng trong những ngày này, mọi nhà bắt đầu thịt lợn. Nhà giàu thì mổ cả con, nhưng nhà khấm khá một chút thì chung nhau hai nhà, còn đa số vẫn là 4 nhà, mỗi nhà “một chân” chia nhau từ lòng lưỡi đến thịt xương. Sau khi thưởng thức bữa “tiết canh, lòng lợn”, mở đầu cho chuỗi “no ba ngày Tết”, cánh đàn ông sẽ xẻ thịt, giã giò…

Quây quần bên ông bà gói bánh chưng (ảnh internet).
Quây quần bên ông bà gói bánh chưng (ảnh internet).  

Các mẹ, các chị thì gánh gồng ra bến sông để vo gạo nếp và đãi đỗ, xong mang về ngâm để sáng 30 sẽ gói bánh chưng. Tinh mơ ngày cuối năm, những chiếc đèn dầu được thắp sáng, khi lũ trẻ còn đang ngủ vùi trong chăn ấm thì các bà, các mẹ, các cô gái mới lớn đã lục tục ngồi gói bánh chưng.

Chiều 30 Tết, các nghĩa trang nhộn nhịp người ra thắp hương để “mời các cụ về nhà mình ăn Tết”. Ở nhà, những người phụ nữ đã lo bữa cỗ Tết đầu tiên thật đủ đầy. Lũ trẻ được tắm nước lá mùi già, hăng hái treo pháo lên chiếc dây phơi hoặc cái cột nào đó trong sân, chờ thày u thắp hương là xúm vào đốt pháo. Đấy là những tiếng pháo đầu tiên báo hiệu một năm mới sắp đến.

Sáng mùng Một, những đứa trẻ háo hức được mặc quần áo mới, chờ người lớn mừng tuổi đầu năm. Những cậu bé nhanh nhẹn, thông minh, sáng láng được chọn để xông nhà. Mâm cỗ được dọn lên, cả nhà quây quần thưởng thức, nào bánh chưng, giò chả, nào thịt gà nấu đông, nào bánh gio thơm mùi nếp pha vị vôi nồng, nào mùi hương quyện trong mùi pháo, đường làng vắng vẻ, tất cả mọi thứ như được khoác lên mình tấm áo mới…

Xin chữ ngày xuân. (ảnh internet).
Xin chữ ngày xuân. (ảnh internet).  

Và như thế, từ bao đời nay, Tết Nguyên Đán là một ngày lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam. Tết bắt đầu cho việc khởi đầu một năm mới với những điều tốt đẹp nhất, hi vọng một năm mới an lành, may mắn, thành công. Tết Nguyên Đán cũng chính là việc mọi người trở về nhà sum họp, hỏi thăm nhau sau một năm dài xa cha mẹ, xóm làng, họ hàng, bạn bè…

Tết xưa thương nhớ là bởi những tháng ngày gian khó, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm ấy, luôn có những ấm nồng thương yêu. Ấy là những tảo tần của cha, của mẹ lo cho đàn con một cái Tết tươm tất nhất có thể. Mọi thứ đều lo dành dụm cho Tết! Đứa trẻ được xúng xính bộ quần áo mới! Và ngày Tết luôn là những rưng rưng cay mắt, bên nồi bánh chưng đêm 30, khi mọi chuẩn bị cho ba ngày Tết đã tươm tất. Phía sau đó là bao nhọc nhằn, gian khó, tảo tần của mẹ…

Và Tết nay…

Những năm gần đây, đặc biệt ở thành phố, người ta thay “ăn Tết” bằng “chơi Tết”. Chỉ cần chuẩn bị hầu bao, mọi thực phẩm vùng miền, sản vật địa phương, thế giới, chỉ cần một cú click chuột, tùy theo túi tiềng, tất cả đều được phục vụ tận răng trong một nốt nhạc.

Ăn Tết thời nay, người ta thay niềm vui gói bánh chưng chiều hoặc đêm ba mươi bằng thú lướt Facebook, hay ngồi dán mắt vào màn hình xem hài Tết hoặc đi du lịch. Nhà nọ nhà kia mua bánh từ những lò nấu bánh chưng chuyên nghiệp sản xuất quanh năm. Niềm vui vo gạo, đãi vỏ đậu xanh, tước lạt giang, vợ cắt lá dong xanh, chồng gói bánh và mấy đứa con lon ton nghịch lá trong tiếng quát yêu của người lớn dần đi vào ký ức.

Tết đến, mong người đi xa về sum vầy, nhưng cái mong Tết xưa với Tết nay cũng khác lắm. Ngày xưa đi xa là đi biền biệt, cả năm hay vài ba năm cha mẹ, con cái mới nhìn thấy mặt nhau, chủ yếu liên lạc qua thư từ bởi giao thông đi lại khó khăn.

Ngày nay, vào nhiều dịp nghỉ trong năm, thậm chí là ngày nghỉ cuối tuần, các gia đình có sẵn xe riêng đều có thể về thăm ông bà thường xuyên hay khi đau ốm. Và ngay cả dù có ở bên kia bán cầu, mở Internet ra, nói chuyện qua Skyber, Viber, nghe được tiếng, nhìn rõ mặt, thậm chí nếu không có covid 19, người ta có thể bay qua bay lại như đi chợ. Bởi vì thế, khi về ăn Tết, gặp nhau cũng bớt rưng rưng hơn so với cái sự xa ngái, biền biệt như ngày xưa. 

Có thể nói, khi cuộc sống đủ đầy, người ta nuông chiều cảm giác của bản thân, chẳng còn thiết tha đón Xuân hay chúc mừng nhau nữa. Ngày Tết thu hẹp lại trong gia đình nhỏ, mà không la đà chúc Tết khắp bạn bè, xóm giềng. Tết nay với người trẻ mất hẳn niềm vui hóng Tết bởi đã được ăn ngon mặc đẹp quanh năm, nếu có cũng chỉ là mong Tết để được nghỉ học đi du lịch.

Ngày nay việc ăn uống ngày Tết dường như ai cũng sợ, cũng ngán vì bình thường họ vẫn có đủ những món ăn ngon. Tết nay không chỉ ngược xuôi những chuyến đi về của công nhân, sinh viên về quê ăn Tết. Đó còn là những chuyến đi xa của những người dư giả muốn khám phá vùng đất mới. Khái niệm “tha hương” không còn mang những nỗi ngậm ngùi mà có thêm những sắc thái trải nghiệm thú vị. Nhiều gia đình còn lựa chọn những chuyến du lịch dài ngày thay vì sum họp gia đình như xưa…

Tuy nhiên, dù có bao nhiêu đổi thay, chỉ cần bạn “trở về” với tâm thức đủ đầy, chỉ cần trở về bên cha mẹ, bên bếp lửa, góc sân ngày thơ bé… Trở về với phiên chợ ngày Tết, trở về bên nồi bánh chưng đón giao thừa cùng cha mẹ, thì Tết luôn vẹn nguyên, như chưa hề có những thời gian hạnh phúc hay khổ đau, thành công hay thất bại, khi mỗi chúng ta rời xa căn nhà thời thơ ấu…

Đọc thêm