Ngày 23/11/2015, ông Nguyễn Huy Nam (Giám đốc Cty CN Thanh Hóa) đại diện Bên B (nguyên đơn) khởi kiện lần hai đến TAND TP Thanh Hóa yêu cầu Cty Thảo Trung (bị đơn) thanh toán số tiền hơn 1,415 tỷ đồng. Tuy nhiên, Tòa đã thụ lý vụ án nhưng nguyên đơn vẫn chưa lập hồ sơ chi tiết công nợ hoàn công quyết toán công trình, mà còn có dấu hiệu cung cấp tài liệu, chứng cứ giả cho Tòa nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ kiện (?).
Công văn của UBND phường Ngọc Trạo xác nhận không xác thực Phụ lục Hợp đồng xây dựng của Cty cấp nước Thanh Hóa và Cty Thảo Trung |
Không đủ hồ sơ quyết toán
HĐXX đã xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “tranh chấp hợp đồng xây dựng”, tổng giá trị hơn 4,434 tỷ đồng, trong khi nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn thanh toán hơn 1,415 tỷ đồng trong khi chưa có hồ sơ quyết toán. Như vậy, Tòa sơ thẩm xem xét vụ án vượt quá cả yêu cầu của bên khởi kiện.
Mặt khác, trong quá trình xét xử, Tòa cấp sơ thẩm không căn cứ vào các điều khoản trong hợp đồng và biên bản ký kết giữa Bên A và Bên B để xem xét vụ án khách quan. Cụ thể, trong hồ sơ vụ án, Bên B không có đủ hồ sơ quyết toán chi tiết công nợ theo thỏa thuận tại Hợp đồng xây dựng số 102 nói trên. Thế nhưng, HĐXX sơ thẩm vẫn chấp nhận đơn khởi kiện của Bên B, như vậy là thiếu căn cứ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Trong khi đó, Hợp đồng xây dựng số 102/HĐXD có nhiều nội dung khẳng định Bên B phải lập Hồ sơ quyết toán xây dựng, đó là: Thứ nhất, tại Điều 4 của Hợp đồng nêu rõ, Bên A chỉ nghiệm thu khi đối tượng nghiệm thu đã hoàn thành và có đủ hồ sơ theo quy định. Thứ hai, tại mục 13.2. Điều 13 của Hợp đồng ghi nhận quyền và nghĩa vụ của Bên B phải: “Thi công công trình đúng hồ sơ, lập hồ sơ hoàn công theo hướng dẫn của Bên A và kỹ thuật tư vấn”.
Thứ ba, Hợp đồng ký kết căn cứ Nghị định số 99/2007/NĐ-CP (ngày 13/6/2006) của Chính phủ quy định về “quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình”, tại khoản 1 Điều 26 quy định: “Hồ sơ thanh toán hợp đồng xây dựng do bên nhận thầu lập”. Như vậy, Cty CN Thanh Hóa (Bên B) là bên phải lập hồ sơ thanh toán hợp đồng xây dựng. Thứ tư, tại mục 2.2 của Biên bản ngày 28/12/2007, bổ sung cho Hợp đồng xây dựng số 102/HĐXD có quy định trách nhiệm của Bên B làm hồ sơ thí nghiệm, nghiệm thu, nhật ký, các biên bản (hoàn tất hồ sơ công trình) công việc được thực hiện ngay từ khi khởi công đến khi xong quyết toán công trình của dự án.
Cung cấp tài liệu, chứng cứ giả?
Tại tòa, bị đơn đã sao chụp hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật và đã phát hiện Phụ lục hợp đồng số 102 và Biên bản bàn giao đưa vào sử dụng là hai văn bản ngụy tạo, vì trước đó cả Bên A và Bên B chưa hề biết có hai văn bản này. Thế nhưng, không hiểu động cơ và mục đích gì nguyên đơn lại cung cấp cho Tòa văn bản Phụ lục hợp đồng số 102 có sự chứng thực của UBND phường Ngọc Trạo, TP Thanh Hóa?
Để làm rõ sự cung cấp chứng cứ giả nêu trên, Cty Thảo Trung có văn bản yêu cầu xác minh tại UBND phường Ngọc Trạo. Ngày 26/8/2016, ông Nguyễn Hữu Đại – Chủ tịch UBND phường Ngọc Trạo ký Công văn số 171/CV-UBND trả lời Cty Thảo Trung, khẳng định: “Ngày 03/12/2008 tại số y sao 44, quyển số 01/2008 là Hợp đồng xây lắp số 06. Ngày 06/6/2014 tại số y sao số 159, quyển số 01/2014 là Biên bản”.
Như vậy, ngày 03/12/2008, UBND phường Ngọc Trạo không y sao xác thực “Phụ lục Hợp đồng xây dựng (không đề ngày tháng) do Cty CN Thanh Hóa yêu cầu. Liệu đây có phải là hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức để cung cấp cho Tòa?
Cũng sự việc này, trước đây báo chí đã phản ánh, ngày 28/1/2013, đại diện Cty Thảo Trung vào làm việc tại Cty CN Thanh Hóa về dự án cấp nước quốc lộ 47. Qua đó, ông Nguyễn Huy Nhắn (Phó Tổng Giám đốc Cty CN Thanh Hóa) có yêu cầu Giám đốc Cty Thảo Trung ký biên bản xác nhận công nợ Dự án cấp nước hồ Kim Quy làng cổ Đông Sơn mặc dù biên bản này chưa được các phòng, ban của Cty Thảo Trung kiểm tra giá trị thực tế, nhưng vì tin tưởng sự trung thực của biên bản mà ông Nhắn đã ký nên Giám đốc Cty Thảo Trung đã ký vào biên bản đối chiếu công nợ 2 bên.
Điều đáng nói là, ngày 22/10/2013, Cty CN Thanh Hóa dùng Biên bản xác nhận công nợ làm căn cứ khởi kiện đến TAND TP Thanh Hóa yêu cầu Cty Thảo Trung (Bên A) phải thanh toán hơn 2,096 tỷ đồng. Tuy vậy, Bên B sau đó không chứng minh được số tiền nợ này nên đã rút đơn kiện. Theo đó, Tòa sơ thẩm TAND TP Thanh Hóa đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Liệu sự việc cung cấp tài liệu, chứng cứ giả nói trên của nguyên đơn có được HĐXX phúc thẩm vào ngày 28/9/2016 đồng ý cho giám định theo yêu cầu của bị đơn hay không?
PLVN sẽ tiếp tục phản ánh đến bạn đọc.