Dịch vụ logistics 'theo thông lệ quốc tế' như thế nào?

(PLO) - Góp ý Dự thảo Nghị định quy định về kinh doanh dịch vụ logistics, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, các quy định phân loại dịch vụ logistics trong dự thảo vẫn còn chưa rõ ràng, khó để phân loại dịch vụ.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Theo Luật thương mại hay theo thông lệ quốc tế?

Trên thực tế, rất khó để phân loại dịch vụ logistics bởi tính đa dạng và linh hoạt của thị trường phù hợp với nhu cầu và năng lực của các bên giao kết hợp đồng. Do đó, việc Dự thảo đưa ra quy định “quét” tại Điều 4.17 là phù hợp. Tuy nhiên, quy định này yêu cầu dịch vụ khác phải đáp ứng hai yêu cầu: một là, “theo thông lệ quốc tế về dịch vụ logistics”; hai là, “phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Luật Thương mại”. 

Theo nhận định của các chuyên gia từ VCCI, việc yêu cầu một dịch vụ phải đáp ứng yêu cầu “theo thông lệ quốc tế về dịch vụ logistics” là chưa thực sự phù hợp. Thứ nhất, không rõ tiêu chí để xác định như thế nào là “thông lệ quốc tế về dịch vụ logistics”, việc có một hoặc một vài doanh nghiệp (DN) đến từ một hoặc một vài quốc gia khác cung cấp một loại dịch vụ thì có được gọi là thông lệ quốc tế không, hay phải yêu cầu mức độ phổ quát lớn hơn? Các bên sẽ dùng tài liệu nào để chứng minh sự tồn tại của thông lệ quốc tế đó và việc dịch vụ của mình cũng tương tự như các thông lệ quốc tế đó?

Hơn nữa, một dịch vụ chỉ cần phù hợp với quy định của Luật Thương mại là đủ để được coi là dịch vụ logistics, và việc các bên cung ứng, sử dụng dịch vụ đó là hoàn toàn hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, mà không cần phải chứng minh sự phù hợp với thông lệ quốc tế.

“Việc yêu cầu một loại dịch vụ mới phải phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ dẫn đến cản trở khả năng sáng tạo của các DN Việt Nam khi muốn cung ứng một dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nói cách khác,  nếu duy trì quy định này, các DN Việt Nam chỉ có thể trở thành “người bắt chước” chứ không thể trở thành “người sáng tạo” ra các dịch vụ mới. Trong bối cảnh Chính phủ phát động khởi nghiệp, cổ vũ đổi mới sáng tạo thì việc quy định cứng như vậy là không phù hợp” – văn bản của VCCI gửi Vụ Kinh tế tổng hợp (Văn phòng Chính phủ) nêu rõ.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng, các dịch vụ logistics cụ thể phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm loại hàng hóa, cấu trúc thị trường, thể chế, pháp luật của mỗi quốc gia… Do đó, nếu Việt Nam có một loại hàng hóa đặc thù, có cấu trúc thị trường đặc thù (ví dụ, do đặc điểm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) hoặc có một số quy định pháp luật đặc thù thì có thể dẫn đến việc nảy sinh các nhu cầu mà không một quốc gia nào khác trên thế giới nảy sinh tương tự.

Điều đó dẫn đến việc có những dịch vụ logistics mà chỉ có tại Việt Nam không có tại các quốc gia khác. Nếu quy định cứng là dịch vụ khác phải “theo thông lệ quốc tế” thì có thể dẫn đến việc Nhà nước không công nhận tính hợp pháp của một loại hình dịch vụ nào đó mà việc cung cấp, sử dụng dịch vụ này không gây bất kỳ một tác động xấu nào đến xã hội.

Chính vì thế, VCCI cho rằng, cần phải “sửa đổi Điều 4.17 của Dự thảo theo hướng bỏ yêu cầu dịch vụ khác phải theo thông lệ quốc tế mà chỉ cần phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Luật Thương mại là đủ”.

Thực hiện điều kiện đầu tư theo nghị định nào?

Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đầu tư có một số quy định mang tính nguyên tắc về việc thực hiện điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài. Một số quy định tại Dự thảo Nghị định này chưa thống nhất với Nghị định 118/2015/NĐ-CP. Cụ thể, Điều 10.2.a của Nghị định 118 đưa ra nguyên tắc: “Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư thuộc các ngành, nghề khác nhau phải đáp ứng toàn bộ điều kiện đầu tư đối với các ngành, nghề đó”. Trong khi đó, Dự thảo chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.

Điều 10.2.b của Nghị định 118/2015/NĐ-CP đưa ra nguyên tắc: Khi có nhiều điều ước có quy định khác nhau thì nhà đầu tư được lựa chọn một trong số các điều ước đó và nếu đã lựa chọn thì phải thực hiện quyền và nghĩa vụ theo điều ước đó. Trong khi đó, Điều 5.4 của Dự thảo lại xử lý trường hợp này bằng cách ưu tiên áp dụng điều ước có cam kết ưu đãi cao hơn so với quy định của Nghị định này (Nghị định này được hiểu là đang nội luật hóa cam kết của Việt Nam trong WTO). 

Điều 10.2.d của Nghị định 118/2015/NĐ-CP cho phép nhà đầu tư đến từ quốc gia ngoài WTO được áp dụng điều kiện đầu tư tương tự như nhà đầu tư đến từ quốc gia trong WTO. Trong khi đó, Điều 3 của Dự thảo lại loại trừ các nhà đầu tư đến từ quốc gia ngoài WTO ra khỏi đối tượng áp dụng của dự thảo.

Điều 10.2.đ và Điều 10.2.e của Nghị định 118/2015/NĐ-CP xử lý trường hợp không có điều ước, không có quy định của pháp luật Việt Nam thì phải lấy ý kiến Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ quản lý chuyên ngành, sau đó phải đăng công khai và áp dụng nguyên tắc “tiền lệ” đối với các trường hợp sau. Trong khi đó, Dự thảo lại chưa có quy định xử lý trường hợp này. 

Đọc thêm