Trước cảnh tượng rút đi vội vã, sợ sệt, không kèn không trống, nhiều nhà bình luận chính trị đã khôi hài gọi đó là cuộc “tập rượt” của các công dân cường quốc thế giới.
Bão lửa
Ngày 9/3, quân Giải phóng triển khai lực lượng cài xong thế chiến lược và chiến dịch, chia cắt Tây Nguyên với vùng đồng bằng, chia cắt phía nam với phía bắc Tây Nguyên, hoàn toàn bao vây và cô lập thị xã Buôn Ma Thuột.
Đúng 2 giờ sáng ngày 10/3, bộ đội đặc công nổ súng đánh sân bay Hoà Bình, hậu cứ Trung đoàn 53, sân bay thị xã và kho Mai Hắc Đế, mở màn cuộc tiến công Buôn Ma Thuột. Cùng lúc, các loại pháo, hoả tiễn giội bão lửa vào Sư đoàn bộ 23 nguỵ và kéo dài đến 6 giờ 30 phút, làm rối loạn và tê hệt cơ quan đầu não địch. Chỉ trong vòng một giờ, bộ đội đặc công đã chiếm phần lớn sân bay thị xã, phá huỷ 7 máy bay địch, chiếm một góc sân bay Hoà Bình và toàn bộ kho Mai Hắc Đế.
Lợi dụng tiếng pháo gầm, tiếng súng nổ, các loại xe kéo pháo bắn thẳng, pháo cao xạ, xe tăng, xe thiết giáp, ôtô chở bộ binh của ta từ các phía ào ào tiến về hướng thị xã. Có đơn vị xe tăng của ta cách Buôn Ma Thuột 40km phải băng qua các vật chướng ngại, bỏ qua các đồn bốt địch dọc đường, tiến thẳng về thị xã.
Trên dòng sông Sêrêpốc hung dữ, những chiếc phà hiện đại được lắp ghép rất nhanh; xe tăng, xe bọc thép, pháo cao xạ, pháo cơ giới nối đuôi nhau qua phà. Cả núi rừng Tây Nguyên chuyển động trong bão lửa.
Trong chiến dịch Tây Nguyên, quân giải phóng bắt được Đại tá Vũ Thế Quang - Sư đoàn phó Sư đoàn 23 ngụy. Đại tướng Văn Tiến Dũng kể trong cuốn “Đại thắng mùa xuân”, Quang đã khai rõ việc quân Giải phóng đánh Buôn Ma Thuột là nằm ngoài dự kiến của Bộ Tổng Tham mưu và của Mỹ.
Bởi sau trận Phước Long, Mỹ, ngụy nhận định, Việt Cộng chỉ có thể đánh một số thị xã nhỏ như An Lộc, Gia Nghĩa, còn thị xã lớn như Buôn Ma Thuột, Pleiku, Tây Ninh chưa đánh được. Đến khi Buôn Ma Thuột bị tiến công, Mỹ và ngụy vẫn cho rằng đây chỉ là nghi binh để đánh Gia Nghĩa. Quang hiến kế cho quân Giải phóng đánh Nha Trang, Cam Ranh vì phòng thủ ở nơi đây rất mỏng và tinh thần binh sĩ ngụy đang rất hoang mang.
Sau khi phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuật bị thất bại tại Phước An-Nông Trại-Chư Cúc, địch bắt đầu rút bỏ Tây Nguyên. Đại tướng Văn Tiến Dũng đánh giá, lệnh rút Quân đoàn 2 do nguỵ quyền trung ương ở Sài Gòn phát ra đã vượt quá phạm vi chiến dịch và lên tới tầm chiến lược. Ngay lập tức, đêm 16/3/1975, quân Giải phóng tổ chức lực lượng truy kích địch trên đường 7 và bắt được Đại tá Phạm Duy Tất - Chỉ huy trưởng biệt động quân thuộc Quân khu 2.
Tất khai, chiều 14/3, trong một cuộc họp tại Cam Ranh, sau khi nắm tình hình, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định phải rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo đường 7 để bảo toàn lực lượng, giữ đồng bằng ven biển.
Sáng 15/3, Phú và Bộ Tham mưu Quân đoàn 2 rút bằng máy bay về Nha Trang lấy lý do “thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương chỉ huy tác chiến lấy lại Buôn Ma Thuột”. Những đơn vị chuyên môn rút về Phú Bổn mang theo gia đình, người thân nên lộ bí mật, khiến sĩ quan, binh lính khiếp sợ và gia đình họ ùn ùn kéo vào sân bay, tranh nhau lên máy bay, gây nên sự hỗn loạn. Đường sá tắc nghẽn, quân lính tranh nhau đường đi, chửi bới, đánh nhau ầm ĩ, gây thêm nhiều cảnh hỗn loạn trên đường.
Ngày 16/3, khi đoàn di tản đến Phú Bổn thì mệt mỏi, chán chường quá nên không đi nữa. Giao thông trong thị xã bị tắc nghẽn vì lính dồn về đông. Binh lính bắt đầu phá phách, cướp bóc trong phố, gây nên cảnh tượng rất hỗn loạn. Khi quân Giải phóng tiến vào chiếm Phú Bổn, Phú ra lệnh bỏ hết vũ khí nặng và quân dụng, chạy khỏi Phú Bổn.
Trận Buôn Ma Thuột hiểm và mạnh quá, tiếp đến trận đánh diệt quân viện Sư đoàn 23 ở phía đông Buôn Ma Thuột nhanh và gọn quá làm cho địch hốt hoảng, rối loạn không những ở cấp sư đoàn, quân khu mà chính là động đến cơ quan đầu não của nguỵ quyền Sài Gòn. Từ sai lầm về chiến thuật, chiến dịch, bị đánh đau quá đi đến sai lầm về chiến lược, nguỵ quyền Sài Gòn hoảng hốt ra lệnh rút chạy khỏi Tây Nguyên, đưa quân về đồng bằng hòng giữ lực lượng và giữ đất.
|
Chạy khỏi Pleiku, đăng trên báo Chính Luận, Sài Gòn, ngày 18/3/1975 |
Hoảng loạn ở Pleiku
Khi những thành phố nối tiếp nhau rơi vào tay quân giải phóng, thì các phi công Air American chỉ còn một nhiệm vụ chính là thực hiện các chuyến bay di tản và đó là những điệp vụ vô cùng căng thẳng.
Nỗi hoảng loạn và tình trạng vô chính phủ còn đi trước bước chân của đối phương và những máy bay trực thăng của Air American trở thành phương tiện duy nhất đối với một số người Việt Nam muốn chạy trốn. Tại nhiều thành phố, binh lính trong quân đội Nam Việt Nam chạy lung tung, xả súng vào thường dân và vào cả những chiếc máy bay của Air American.
Việc di tản được thực hiện theo phương châm: Di tản những người "nhạy cảm", tức là những người đã từng cộng tác, làm việc với quân đội Mỹ, CIA và các cơ quan tình báo, Cơ quan viện trợ Mỹ USAID hoặc những cơ quan khác tương tự. Những người này được phát những tấm vé đặc biệt cho phép ra đi.
Các máy bay của Air American chỉ việc bay vào và bốc mọi người đi. Ngày đầu tiên, cuộc di tản diễn ra tương đối trật tự, nhưng sang đến ngày thứ hai thì thể hiện rõ sự vô tổ chức. Số người ở những điểm tập trung để di tản hơn gấp nhiều lần so với số lượng người có thể chở đi được; xô xát nổ ra và hệ thống phân phối vé đặc biệt bị phá vỡ. Sang đến ngày thứ ba, tình thế đã hoàn toàn trở nên hỗn loạn. "Cuộc di tản diễn ra trong sự hoảng loạn” - Art Kenyon kể lại - “Đám đông hoàn toàn hoảng loạn, mất hết kiểm soát. Chúng tôi phải kéo thang dây lên, đóng cửa những chiếc C-46 lại và mọi người bắt đầu công kênh nhau leo lên cánh máy bay, đập cửa để đòi vào bên trong máy bay.
Một lần, chúng tôi kéo cầu thang máy bay lên và cho ngừng hoạt động một động cơ của máy bay, vì không muốn phí thì giờ. Luôn có một khả năng rằng ắc quy cạn kiệt và phải luôn có một động cơ khác sẵn sàng khởi động. Chúng tôi ngừng động cơ bên trái máy bay trong khi những hành khách đang lên máy bay.
Khi đó có khoảng 9 người đang treo lủng lẳng dưới cánh của máy bay và một nhóm khác tụm lại ở chỗ động cơ bên trái. Tôi ló đầu ra khỏi cửa máy bay và quan sát. Tôi hơi đẩy cánh quạt dẫn hướng của máy bay khoảng một hai bộ để nếu nó có quệt vào ai đó thì cũng không khiến cho người ta bị thương. Họ có thể nhìn thấy nó chuyển động và cảm thấy sự nguy hiểm. Tôi tăng sức quay của cánh quạt lên 3 bộ (khoảng hơn 30 cm-ND), rồi 6 bộ, những người trên cánh máy bay dạt ra và tôi bắt đầu khởi động động cơ. Rồi chúng tôi đẩy tất cả những người này xuống khỏi cánh máy bay".
Các phi công thường chờ cho đến khi máy bay đầy ứ người, nặng đến hết mức có thể rồi mới cất cánh. Theo lý thuyết, một chiếc C-46 có thể chở được 51 người, nhưng một phi công của Air American, trong những ngày ấy khi cất cánh khỏi Pleiku đã mang theo 142 quân nhân trang bị đầy đủ vũ khí và phải bay tới 90 dặm để có thể lên tới độ cao khoảng 1.000 bộ (hơn 300m). Tải trọng tối đa cho một chiếc C-46 vào khoảng 46.000 pound, nhưng sau chuyến bay này, các phi công ước tính họ đã chuyên chở một trọng lượng nặng tới 57.000 pound.
Còn những chiếc C-47, thông thường chở khoảng 30 người thì trong những ngày ấy thường xuyên phải chở tới 80 người. Riêng loại máy bay vận tải hạng nặng DC-6 của Air American thì đã ghi nhận được là có chuyến chở tới 340 người.
"Tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng trên con đường dẫn ra khỏi Pleiku" - Fred Anderson, một phi công của Air American, nhớ lại. "Cả một khối người đen đặc di chuyển trên đường, mang vác theo tất cả những gì mà họ có thể mang vác được. Có lẽ có hàng ngàn người chết mỗi ngày trong cái cảnh tượng hỗn loạn đó".
Đấy là thời gian mà sự căng thẳng thần kinh luôn chế ngự tất cả. Những người di tản tụ tập tấn công các máy bay, bắn chỉ thiên, trong khi những binh sĩ quân đội Sài Gòn trong tình trạng thất vọng thậm chí còn nguy hiểm hơn cả kẻ thù.
"Tất cả những phát súng bắn vào chúng tôi trong những ngày Pleiku sụp đổ đều là do quân Nam Việt Nam bắn” - Wayne Lannin, một phi công khác của Air American kể lại - “Tràn ngập một không khí thất vọng và vỡ mộng. Tất cả mọi người đều ở trong tình trạng bị kích động; họ chỉ muốn thoát ra khỏi vùng chiến sự càng nhanh càng tốt và không muốn suy nghĩ bất cứ điều gì. Đó là một tình trạng vô chính phủ hoàn toàn, khi con người bị hạ thấp xuống đến mức thấp nhất về nhân cách"…/.