Điệu múa kết nối với thần linh
Trong ở bất cứ nghi lễ nào của người Dao, âm nhạc và các điệu múa là những thứ không thể thiếu. Chúng góp phần tạo nên không khí, sự hấp dẫn, huyền ảo cho chính các nghi lễ. Đương nhiên, trong nghi lễ Cấp sắc – nghi lễ quan trọng nhất của người Dao hoàn toàn không thể thiếu được hai điều này.
Điệu múa rùa (múa bắt ba ba) của người Dao xuất hiện trong các lễ Cấp sắc mang trong mình một câu chuyện nhuốm màu huyền bí. Người Dao đều không biết chính xác điệu múa rùa độc đáo của đồng bào mình có từ bao giờ và ai sáng tác. Họ chỉ biết rằng, ngay từ nhỏ đã được chiêm ngưỡng, thưởng thức điệu múa độc đáo này trong các nghi lễ của dân tộc mình. Rồi khi lớn lên những nam thanh niên đã được cha, ông của mình truyền lại cho điệu múa này.
Những câu chuyện về nguồn gốc của điệu múa này được kể một cách không thống nhất. Ở mỗi nhóm Dao khác nhau câu chuyện về sự ra đời của điệu múa rùa lại mang một dị bản. Tuy nhiên câu chuyện mà được nhiều thế hệ người Dao lan truyền đó là: Từ xa xưa, người Dao đang đoàn kết, sinh sống yên vui, mùa màng tươi tốt, trâu, bò, lợn, gà đầy đàn… thì bỗng một ngày xuất hiện một con rùa yêu quái đến quẫy nhiễu, phá hoại mùa màng, gieo rắc bệnh tật cho người và gia súc, gia cầm khiến mọi người hoang mang, lo sợ.
Không biết làm cách nào để thoát khỏi kiếp nạn đó, họ bèn kêu cứu lên Bàn Vương – người được đồng bào Dao coi là thủy tổ của các dòng họ của mình. Ông được đồng bào Dao cúng bái chung với tổ tiên của từng dòng họ, từng gia đình. Khi nghe được lời thỉnh cầu của con dân, Bàn Vương liền báo mộng cho biết: Tất cả những tai họa người dân gặp phải đều do con rùa yêu quái gây ra nên phải tìm bắt và giết ngay lập tức thì người dân mới được sống những ngày tháng yên bình.
Sau khi được báo mộng, người Dao họp bàn nhau lại và thống nhất những người đàn ông, nam thanh niên đều phải đi tìm bắt bằng được con rùa yêu quái. Từ đó, điệu múa bắt rùa được ra đời.
Để thực hiện điệu múa này thì có rất nhiều người đàn ông cùng lúc tham gia. Trong lễ Cấp sắc, khi thực hiện điệu múa bắt rùa, người thầy cúng chính sẽ dẫn đầu và lần lượt các thầy cúng khác cùng các nam nhân được Cấp sắc sẽ theo hiệu lệnh mà nhảy múa.
|
Những nam thanh niên đồng bào Dao tại xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh tái hiện lại điệu múa bắt rùa trong lễ Cấp sắc |
Trong những bộ trang phục rực rỡ của đồng bào dân tộc Dao kết hợp các động tác mô phỏng hành động theo các bước bắt rùa trong các chuyển động đội hình khi ngang, khi chéo, khi đan xen một cách khéo léo, nhuần nhị. Điệu múa sẽ có sự kết hợp với các nhạc cụ truyền thống: Dủ (trống), lò (thanh la), xìm xoe (lão bạt), giặt (kèn), tông trình (chuông con), ngùng coong (tù và bằng sừng trâu) ...
Trong buổi lễ Cấp sắc, khi tất cả các nhạc cụ cùng hoà tấu thì trở thành một dàn nhạc dân tộc rất độc đáo, đặc sắc không thể thiếu được trong lễ Cấp sắc. Âm nhạc trong lễ Cấp sắc cũng rất đa dạng tuỳ thuộc vào mỗi lễ thức cụ thể, có khi rất tĩnh nghiêm, trầm lắng, có khi lại rất sôi động, vui nhộn. Đặc biệt, âm sắc và khả năng diễn tấu của cây kèn, vì tiếng kèn ở đây là tiếng kèn vui, hoàn toàn ngược lại với tiếng kèn trong đám tang là tiếng kèn buồn thương đưa tiễn.
Tiếng chuông con kêu leng keng trong các điệu nhảy của lễ cấp sắc cũng là những âm thanh độc đáo gây ấn tượng khó quên. Đặc biệt là tiếng tù và thổi trong lễ Thượng quang cất lên vang vọng núi rừng trong đêm khuya vắng, kết hợp với cảnh thày cúng đội mũ Tam Thanh, làm các động tác tế lễ trời đất, miệng lẩm nhẩm cầu khấn thần linh là những cảnh tượng rất huyền bí và linh thiêng. Những điều đó càng khiến điệu múa rùa trở nên hấp dẫn và thiêng liêng.
Theo ông Triệu Thanh Xuân ở thôn Nà Bắp, xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh - người am hiểu về văn hóa truyền thống Dao, điệu múa bắt rùa là niềm tự hào của dân tộc Dao. Bởi chúng không hề giống với bất cứ điệu múa của dân tộc nào. Điệu múa bắt rùa sẽ diễn ra với các bước cơ bản gồm: Shuốt tổ (xuất phát); diện tổ (cuốn vòng vây để bắt rùa); dồng tổ (chọc cây vào hang để xua con rùa ra); schó tổ (bắt rùa); nghĩa tổ (đưa rùa về nhà); pái tổ (đặt rùa lên bàn để cân); schún tổ (xâu thịt rùa); píu tổ (chia thịt rùa).
|
Điệu múa bắt rùa là niềm tự hào của đồng bào Dao |
Đặc biệt, trong lễ Cấp sắc không phải cấp nào cũng được múa bắt rùa khi tổ chức nghi lễ. Chỉ từ nghi lễ Cấp sắc bậc 2, 7 đèn trở lên mới được múa điệu bắt rùa. Không chỉ là một nghi lễ tầm thường, điệu múa bắt rùa còn mang ý nghĩa cầu mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với anh em, họ hàng, dân bản, cầu mong mùa màng bội thu, đời sống đủ đầy.
“Qua đó, người Dao nói chung và đồng bao Dao ở Ba Chẽ chúng tôi nói riêng muốn để cho con cháu biết về nguồn gốc của mình, góp phần phát huy niềm tự hào bản sắc dân tộc. Tôi cố gắng dạy lại điệu múa này cho nhiều thanh niên trong thôn để nét văn hóa độc đáo của đồng bào sẽ luôn được gìn giữ”, ông Triệu Thanh Xuân bộc bạch. Và cũng theo ông Xuân, trong lễ Cấp sắc chỉ khi hoàn thiện được điệu múa bắt rùa thì người đàn ông mới có khả năng học làm thầy cúng. Đồng thời, họ mới là người đàn ông trưởng thành và có đủ sức mạnh đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống.
Chưa thụ lễ Cấp sắc, chưa phải đàn ông trưởng thành
Người Dao tại Việt Nam dù cho có chia thành bao nhiêu nhóm như: Dao Đỏ; Dao Tiền; Dao Thanh Phán; Dao Thanh Y… có nhiều điểm khác biệt về phong tục, tập quán trong đời sống tâm linh của họ đều có một điểm chung đó là lễ Cấp sắc. Lễ Cấp sắc trong tiếng Dao có tên gọi là “quá tăng” hay “quá tang”. Từ “quá” nghĩa là vượt qua thử thách hay sự từng trải, “tang” chính là chỉ ngọn đèn hay vật để thắp sáng, soi sáng. Do đó, tên gọi “quá tang” có ý nghĩa là trải qua lễ soi đèn, soi sáng cho người được thụ lễ trong tiến trình Cấp sắc.
Ngoài ra, ở một số đồng bào Dao ở nhiều vùng khác nhau còn gọi lễ Cấp sắc là “tạt phat búa” – tức là đặt tên âm, tên mật, pháp danh hay tên ma; “chấu đàng” – tức là lễ cũng Bàn Vương (là ông tổ của người Dao). Tuy có nhiều tên gọi khác nhau nhưng nguồn gốc, bản chất và thông điệp của nghi lễ này ở các nhóm đồng bào Dao vẫn là giống nhau. Đó là nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành của một người đàn ông trong cộng đồng người Dao.
Theo phong tục của người Dao, người đàn ông phải trải qua lễ Cấp sắc thì mới được công nhận trưởng thành, đo đó đây là nghi lễ không thể thiếu trong đời sống cộng đồng. “Dù có 20 tuổi, 30 tuổi hay 40 tuổi, dù là thanh niên hay người đã lập gia đình đi chăng nữa. Nếu họ chưa được Cấp sắc thì cũng chưa được đồng bào Dao coi là người đã trưởng thành, vẫn chỉ giống như một đứa trẻ. Chỉ khi đã được Cấp sắc thì họ mới được tham gia vào các công việc hệ trọng của làng.”, ông Triệu Thanh Xuân (thôn Nà Bắp, xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh), một người tâm huyết, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc Dao Thanh Phán cho hay.
Bởi vai trò quan trọng như vậy nên mọi việc, thủ tục liên quan đến lễ Cấp sắc đều được thực hiện và lựa chọn một cẩn thận và kỹ lưỡng. Người được làm lễ chỉ có thể là đàn ông, nếu là con gái thì chỉ là vợ của người được cấp sức mới được tham gia vào một số công đoạn. Ngày mà người Dao lựa chọn thực hiện nghi lễ cũng vô cùng cẩn thận, phải nhờ thầy Mo (thầy cúng) giỏi xem cho. Thông thường người Dao tổ chức lễ cấp sắc vào các dịp cuối năm hoặc trong tháng Giêng Âm lịch.
Trong một lễ cấp sắc người ta có thể làm lễ cho một hoặc nhiều người cùng một lúc. Trong trường hợp tổ chức cho nhiều người thì phải là số lẻ chứ không được là số chẵn. Độ tuổi tham gia lễ Cấp sắc có thể khác nhau, nhưng con trai thường từ 10 tuổi trở lên. Trong một gia đình, việc Cấp sắc phải được thực hiện theo thứ tự từ trên xuống dưới, từ cha đế con, từ anh đến em.
Trong lễ cấp sắc, những người tham gia vào buổi lễ phải tuân thủ những nguyên tắc khá nghiêm cẩn. Ví dụ trước khi tiến hành Cấp sắc, người được cấp sắc tuyệt đối không được sát sinh, cãi nhau, hát hò, ngườicó gia đình kiêng kị không được ngủ chung với vợ trước, trong và sau 10 ngày làm lễ….
Thầy Cả (thầy cúng chính trong buổi lễ) nhất thiết phải mặc áo tế hay còn gọi là áo thầy cúng. Áo này được thêu thùa rất công phu theo các nhân vật và sự tích của Đạo giáo. Phía trước ngực và sau lưng có thêu bằng chữ Hán. Phía trước ngực thêu chữ “Bản mệnh chi thìn” (ngôi sao bản mệnh) và “Trường sinh bất lão” (sống mãi không già). Trang phục của các thày cúng khác và người được cấp sắc thì mặc quần áo dân tộc cổ truyền của phụ nữ Dao Thanh Phán.
|
Ông Triệu Thanh Xuân và các thầy cúng hành lễ Cấp sắc của đồng bào Dao Thanh Phán (huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh) |
Việc chuẩn bị cho lễ Cấp sắc người Dao chuẩn bị vô cùng chu đáo. Nếu có mong muốn tổ chức lễ Cấp sắc thì gia đình phải đến nhà thầy cúng cao tay trong bản, làng xem ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ. Sau đó, khi gần đến ngày, gia chủ sẽ thông báo cho anh em họ hàng để giúp đỡ dọn dẹo, nấu cỗ mời bà con tới dụ lễ. Về phía gia chủ phải chuẩn bị các lễ vật để phục vụ cho lễ Cấp sắc như rượu, lợn, gạo, trang phục cho người được Cấp sắc.
Lễ Cấp sắc nguyên bản của người Dao khá cầu kỳ và nhiều nghi thức, thủ tục. Thông thường gia chủ phải mời 15 người, trong đó có 2 thầy cúng chủ trì buổi lễ, 1 thầy cúng múa, 3 nam, 3 nữ chưa lập gia đình đến hát, 3 người đàn ông đọc thơ và 3 người giúp việc. Ngoài ra người giúp đỡ cho thầy cúng chính là một số thầy cúng khác và vài người hiểu rõ về quy trình thực hiện các thủ tục diễn ra trong lễ Cấp sắc.
Lễ Cấp sắc sẽ được diễn ra với những nghi lễ cơ bản như sau: ở lễ dâng hương, thầy cúng sau khi tẩy uế khu vực làm lễ cúng mới đánh trống thông báo cho các vị thần linh, ông bà, tổ tiên, về chứng gám và phù hộ cho buổi lễ được diễn ra thuận lợi. Khi nghi lễ này diễn ra thầy cúng cùng người giúp việc và người được cấp sắc cùng nhảy múa theo tiếng trống, tiếng chuông, tiếng khèn tạo nên một không khí vui tươi, nhộn nhịp.
Sau lễ dâng hương sẽ là lễ trình diện: khi ông bà tổ tiên cùng các vị thần linh đã về tham dự buổi lễ thì tổ tiên sẽ mang hai con lợn đã làm sạch sẽ để tế lễ ông bà tổ tiên. Tiếp ngay sau đó là lễ dâng đèn: nghi thức này nhằm thể hiện quá trình người được cấp sắc học hành chăm chỉ dưới sự dẫn dắt của thầy cúng để nâng cao hiểu biết, trưởng thành trong cuộc sống.
Nghi thức cuối cùng, lễ thụ đèn mang tính quyết định, người được cấp sắc lúc này sẽ ngồi lên chiếc ghế có dán giấy đỏ thể hiện sự may mắn. Thầy cúng khi đó sẽ đốt đèn, đặt nến xung quanh để làm lễ. Khi tất cả đèn đã được thắp sáng, các thầy cúng đọc các bài văn khấn và đi vòng quanh người cấp sắc.
Ý nghĩa của nghi lễ này chính là người Cấp sắc được nhận truyền bùa phép vf được phân binh tướng từ chính các thầy cúng. Không dừng lại ở đó, thầy cúng còn chính là người truyền cấp đạo sắc với 10 điều cấm và 10 điều nguyện có nội dung răn dạy con người phải luôn biết ơn cha mẹ, sống lương thiện, không được làm điều ác…
Hơn hết, nghi lễ này thầy cúng sẽ cấp pháp danh cho người được cấp sắc. Từ đó, người được cấp sắc có thể học để trở thành thầy cúng. Đồng thời, người được Cấp sắc sẽ được đặt tên âm. Theo quan niệm của người Dao chỉ khi được đặt tên âm thì khi chết họ mới có thể về với ông bà tổ tiên. Sau nghi lễ này, người cáp sắc mới chính thức trở thành người đàn ông trưởng thành, được tổ tiên, cộng đồng công nhận. Ngoài ra, còn nhiều nghi lễ trong lễ Cấp sắc như lễ giao dấu ấn, lễ kết hôn...
Các cấp bậc khác nhau của lễ Cấp sắc
Sự phức tạp, đa dạng và khác biệt của lễ Cấp sắc trong chính cộng đồng người Dao cũng tạo ra nét văn hóa nổi bật của người Dao với 53 dân tộc trên đất Việt. Lễ Cấp sắc của người Dao có 3 cấp bậc, các cấp bậc thường gặp là 3 đèn, 7 đèn và 12 đèn. Cấp bậc càng cao thì chi phí mà gia chủ bỏ ra càng lớn và thời gian chuẩn bị và thực hành nghi lễ càng dài.
Đúng theo phong tục của người Dao, lễ cấp sắc 3 đèn sẽ được diễn ra trong 2 ngày 1 đêm hoặc 1 ngày 2 đếm. Khi đó người thụ lễ sẽ được cấp 36 âm binh. Lễ Cấp sắc 7 đèn sẽ được tổ chức trong thời gian từ 5 đến 7 ngày đêm, khi đó người thụ lễ sẽ được cấp 72 âm binh. Riêng lễ cấp sắc 12 đèn thì thời gian chính làm lễ được diễn ra từ 9 đến 12 ngày đêm. Sau khi kết thúc nghi lễ người thụ lễ được cấp 120 âm binh.
Do sự khác biệt về quy mô nên số lượng người tham gia vào các cấp bậc Cấp sắc cũng có sự khác biệt. Trong lễ Cấp sắc 3 đèn thì gia chủ chỉ cần mời 3 ông thầy cúng. Nhiều hơn trong lễ Cấp sắc 7 đèn thì sẽ phải là 7 ông thầy cúng đã phải trải qua lễ Cấp sắc 7 đèn. Trường hợp cao nhất 12 đèn thì sẽ phải mời được 12 oong thầy cúng chính đã trải qua lễ Cấp sắc 12 đèn. Tất cả đều chưa kể sẽ phải có các thầy cúng phụ việc khác.
|
Lễ cấp sắc 12 đèn của người Dao tại Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái |
Ngoài ra, trong lễ Cấp sắc 7 đèn sẽ có một số nghi thức khác với lễ Cấp sắc 3 đèn. Đó là các lễ lên sàn để trình diện Ngọc Hoàng; lễ cấp đạo sắc và án dấu cho những người thụ lễ; lễ tơ hồng hay lễ thỉnh cầu các thần linh công nhận người thụ lễ, lễ lên thăm thiên đình… Càng cấp cao thì các nghi thức càng nhiều và phức tạp hơn.
Nhưng trên thực tế, đa số người Dao ở các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Quảng Ninh, Tuyên Quang; Phú Thọ... thì người Dao cũng chỉ giữ được lễ Cấp sắc cấp bậc 3 đèn. Hiếm hoi chỉ có người Dao Tiền ở huyện Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn) và huyện Nguyên Bình (tỉnh Cao Bằng) còn giữ và tổ chức lễ Cấp sắc 12 đèn. Tuy nhiên, dù được giữ lại nhưng các nghi thức có sự thay đổi khá nhiều và ần có xu hướng bỏ dần do số người có như cầu thụ lễ ngày càng ít. Do đó, số người được cấp sắc ở cấp bậc 7 đèn trở lên giờ đây cũng dần hiếm hoi.