Bản tâm của bậc nhân đức
Cuối năm 1426, Lê Lợi và Nguyễn Trãi dời đại bản doanh nghĩa quân Lam Sơn từ làng Đông Phù Liệt, nay thuộc xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì (Hà Nội) đến bến Bồ Đề ở bờ Bắc sông Nhĩ, đối diện kinh thành ở bờ Nam để vây hãm thành Đông Quan.
Từ tháng 1/1427, nghĩa quân vừa công thành vừa dụ hàng Vương Thông. Khích lệ tướng sĩ, Lê Lợi hứa rằng sau khi hạ thành Đông Quan, quét sạch bóng giặc Minh sẽ cho 25 vạn quân về cày ruộng.
Trong thư gửi Vương Thông sau đó, Nguyễn Trãi hết sức mềm mỏng. Vương Thông, Sơn Thọ nấn ná, viện đủ cớ như phải chờ chỉ dụ triều đình (nhà Minh), phải chờ lập xong con cháu nhà Trần, phải chờ dâng biểu cầu phong… âm mưu kéo dài thời gian chiếm đóng.
Nguyễn Trãi cương quyết: “Ngày nay, hòa nghị không thành, tín nghĩa hóa hão, không phải là lỗi tại tôi vậy”. Sau đó, Nguyễn Trãi lại biện giải sáu lẽ khiến quân Minh tất thua: “Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, tôi lấy làm tiếc cho ông lắm” và khích “hãy suy nghĩ cho kỹ, bằng không thì nên chỉnh quân bày trận, giao chiến ở chốn đồng bằng, quyết một trận được thua, để xem khéo vụng”...
Khi đó, lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đã lớn mạnh. Quân phụ tử ở Thanh Hóa không dưới hai vạn, số quân tinh tráng ở Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa không dưới vài vạn, cùng quân các lộ Giao Châu không dưới mười vạn. Còn thế giặc thì “sức hết lực cùng, quân nhọc lính mệt, trong thiếu lương thực, ngoài không viện binh... như thịt trên thớt, cá trong nồi...”
Họa hình chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn trong hội thề Đông Quan. |
Trước sự kiên nhẫn cùng sự chân thành của Nguyễn Trãi, lại đang lâm cảnh đường cùng, Vương Thông đồng ý nghị hòa. Ông ta liền đưa một số tướng làm con tin giao cho quân Lam Sơn. Người dân cùng các tướng sĩ đến xem đều đề nghị xin cho giết bọn chúng, nhưng Lê Lợi đáp rằng: Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng, mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng.
Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao?
Kế sách “tâm công” bền bỉ của Lê Lợi, Nguyễn Trãi cuối cùng đã thắng lợi. Đầu tháng 12/1427, tin 15 vạn viện binh do Liễu Thăng chỉ huy bị tiêu diệt trên cánh đồng Xương Giang làm Vương Thông giữ thành Đông Quan tuyệt vọng, phải xin hàng.
Hội thề “cổ kim chưa từng có”
Sử ghi, ngày 10/12/1427, tại phía Nam thành Đông Quan đã diễn ra hội thề. Đoàn Đại Việt có 14 người do Lê Lợi dẫn đầu, có các tướng Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Phạm Vấn, Lê Ngân, Phạm Văn Xảo, Bùi Bị, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Phạm Bôi, Lê Văn An, Bế Khắc Thiện, Ma Luân; đoàn của nhà Minh có 17 người do Vương Thông dẫn đầu.
Sau khi làm lễ khấn vái trời đất, thần linh, núi sông Đại Việt, hai bên cùng uống máu ăn thề và đọc bài “Văn hội thề” do Nguyễn Trãi soạn thảo. Nội dung ghi rõ những điều hai bên cam kết. Bài văn đọc tại hội thề do Nguyễn Trãi soạn, có đoạn: “Từ sau khi lập lời thề này, quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn, đem quân về nước, không thể kéo dài năm tháng, để đợi viện binh đến nơi. Lại phải theo đúng sự lý trong bản tâu, đúng lời bàn trước mà làm.
Bọn Lê Lợi chúng tôi nếu còn chứa lòng làm hại, tự làm việc lừa dối, không dẹp xa ngay quân lính, ngựa voi, việc làm không đúng lời nói (…) thì trời, đất, thần minh, núi cao sông lớn, cho đến thần kỳ các xứ, tôi cùng con cháu của tôi và cả người nước tôi, giết chết hết cả, không để sót lại mống nào.
Về phía bọn quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông, nếu không có lòng thực, tự trái lời thề, khi người phục dịch và các thuyền đã định rồi, cầu đập đường sá đã sửa rồi, mà không làm theo lời bàn, lập tức đem quân về nước còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh; cùng là ngày về đến triều đình, lại không theo sự lý trong bản tâu, lại bàn khác đi, hoặc cho quan quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân thì trời, đất cùng là danh sơn, đại xuyên và thần kỳ các xứ tất cả đem bọn quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà, thân thích, làm cho chết hết và cả quan quân cũng không một người nào được về đến nhà.
... Trời, đất thần kỳ cùng soi xét cho!”.
Lễ thề của nước thua trận dưới chân thành là một nghi lễ ở Trung Quốc có từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc nhưng với nước ta thì đây là lần đầu tiên. Bằng thắng lợi to lớn trong quá trình giải phóng dân tộc, quân và dân ta đã buộc đối phương là một đế chế mạnh phải chấp nhận và thực thi nghi lễ này. Bài “Văn hội thề” đã đi vào lịch sử với giá trị như một bản hiệp định rút quân.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của mình, dân tộc ta bằng những thắng lợi quân sự oanh liệt đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù, đã buộc chủ tướng của “Thiên triều” phải chính thức và công khai tuyên bố đầu hàng với lời thề từ bỏ dã tâm xâm lược, xin rút quân về nước.
Kể từ Hội thề năm 1427, 583 năm đã trôi qua, sử gia các thời đại đều đánh giá Hội thề Đông Quan thể hiện sâu sắc tinh thần hòa hiếu, “cốt yên dân” của quân dân Đại Việt. Áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo viết: “Chúng đã sợ chết tham sống mà muốn thực cầu hòa/ Ta lấy toàn quân làm cốt mà cho dân được nghỉ/ Chẳng những mưu kế cực kỳ sâu xa/ Tưởng cũng xưa nay chưa từng được thấy”.
Theo những điều cam kết trong hội thề, hơn 10 vạn quân Minh rút hết về nước, trong đó có 5 vạn quân ở thành Đông Quan. Với tinh thần nhân đạo “Lấy khoan hồng thể hiện bụng hiếu sinh”, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã cấp hàng trăm chiến thuyền, hàng nghìn con ngựa cùng với đầy đủ lương thực, phương tiện để cho hàng binh và tù bình được an toàn trở về quê hương.
Quân Minh bắt đầu thực hiện việc rút quân từ ngày 29 tháng 12 năm 1427. Cảm kích lượng khoan hồng, lòng nhân đạo và những hành động cao đẹp của quân doanh Bồ Đề lạy tạ Bình Định vương Lê Lợi. Ngày 3/1/1428, Vương Thông sau một đem trò chuyện cởi mở thân mật cùng các thủ lĩnh nghĩa quân, đã cùng toán quân Minh cuối cùng ra khỏi nước ta.
Lê Lợi từ đại bản doanh Bồ Đề vào thành Đông Đô chính thức lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt. Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia được khôi phục.