Sống dựa vào săn bắt, hái lượm
Bộ tộc Korowai sống cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài, lần đầu tiên được phát hiện ra bởi nhà truyền giáo người Hà Lan vào những năm 1970. Theo cuộc điều tra dân số Indonesia thì bộ lạc này có gần 3.000 thành viên sinh sống rải rác trong khắp các cánh rừng ở Papua.
Bộ tộc này không có ngôn ngữ bình thường, họ giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ riêng và thường chỉ là những tiếng la hét, tiếng hú, tín hiệu khói, đánh dấu đường mòn và khả năng đọc dấu chân... Trong tổng số gần 3.000 người, chỉ có một số người Korowai có thể đọc và viết được.
Ở sâu trong rừng rậm, bộ tộc Korowai là một xã hội thu nhỏ với các mối quan hệ gia đình truyền thống, chủ yếu dựa vào săn bắt hái lượm để tồn tại, xây nhà bằng cây cỏ, cá bắt dưới sông, săn thú trong rừng… Đàn ông của bộ tộc Korowai hầu như trần truồng.
Trên mũi của người đàn ông thường được trang điểm đồ vật làm từ răng dơi. Họ chỉ dùng một sợi mây quấn xung quanh bụng, ngực và nhiều chỗ khác của cơ thể có rất nhiều hình xăm. Phụ nữ Korowai để ngực trần, mặc váy ngắn làm từ những chiếc lá khô.
Người Korowai sống gắn kết với nhau, theo từng cụm, thường là 3 - 4 người đàn ông cùng vợ và những đứa con. Mỗi gia đình người Korowai có khoảng 8 thành viên và mỗi gia đình đều có nhà riêng. Đàn ông Korowai lấy từ 2 - 3 vợ, tuy vậy họ không được phép quan hệ trong nhà mà phải ra ngoài, vào rừng để quan hệ tình dục.
Mỗi gia đình người Korowai đều có một khu đất riêng để trồng trọt một số loại rau củ quả, còn lại chủ yếu đều hái lượm trong rừng và săn bắn lợn rừng, hươu, nai... Bột cọ Sago và chuối là thực phẩm thiết yếu và được yêu thích nhất. Cây cọ Sago được người đàn ông Korowai đốn, bột cọ sẽ được người phụ nữ lấy về nấu thành bánh hoặc một món ăn trong các bữa ăn cho cả nhà, còn lại cây cọ sẽ được để thối rữa nhằm nuôi lũ ấu trùng phát triển.
Sau 4-6 tuần, cây cọ sẽ được bổ ra và người Korowai lấy các con ấu trùng này về làm thức ăn. Đây là một món ăn ưa thích của những người Korowai, họ có thể ăn chúng cả lúc còn sống hay nấu chín. Ấu trùng có vị béo ngậy và mùi thơm rất hấp dẫn, là nguồn cung cấp chất béo đáng kể cho người cây Korowai.
Chó và lợn là hai loài vật gắn bó nhất với người Korowai. Lợn chỉ được sử dụng trong những dịp đặc biệt như lễ hội hoặc nghi lễ quan trọng của bộ tộc, chó được người Korowai nuôi lớn vừa để trông nhà, vừa được sử dụng trong việc săn bắn.
Ngôi nhà trên cây của người Korowai. |
Xây nhà trên cây
Những ngôi nhà của bộ tộc Korowai rất đặc biệt, được xây dựng trên cây chứ không phải dưới mặt đất. Người Korowai quan niệm rằng, xây nhà trên cây là để giúp họ tránh muỗi, bởi trong rừng nhiệt đới không có gì nhiều hơn muỗi.
Ngoài ra, nó còn giúp người dân bộ tộc này tránh thú dữ, những mối nguy hiểm từ kẻ thù địch và linh hồn ma quỷ. Những ngôi nhà cũng được xây ở nhiều độ cao khác nhau tùy thuộc vào vị trí của họ trong bộ tộc và phụ thuộc vào việc họ sống hòa hợp với những thành viên khác trong bộ tộc thế nào.
Những ngôi nhà được làm từ những vật liệu gỗ, tre, nứa... và trông xa chúng giống như chiếc tổ chim khổng lồ có thể chứa tới hơn chục người. Một ngôi nhà có thể xây dựng trên một cây duy nhất, nhưng thông thường để ngôi nhà có thể chắc chắn hơn, bộ tộc này sẽ dùng một cụm cây để hỗ trợ và bổ sung nếu một trong số những cây kia bị chết hoặc gãy đổ.
Để xây dựng một ngôi nhà trên cây, người Korowai lựa chọn một cây cổ thụ to lớn, mạnh mẽ làm trụ vững chắc cho ngôi nhà. Những cành cây phía trên ngọn sẽ được chặt bỏ, sau đó họ làm sàn nhà từ chính những cành cây đó và thêm cả lá cọ để phủ lên. Sàn nhà là phần quan trọng nhất, do đó phải cần tới hơn chục người kết hợp với nhau để xây dựng nên.
Các bức tường và mái nhà đơn giản hơn, thường được dựng thành khung bằng tre, nứa… và kết nối với nhau bằng dây mây hoặc sợi cọ. Tiếp theo, để gia cố thêm cho vững chãi, người Korowai đóng thêm các cột trụ ở các góc nhà. Sau cùng, họ chọn những loại cây thân tròn to, dùng rìu đẽo các khấc tạo thành chiếc thang và đặt sát vào thân cây chính để leo lên nhà.
Mỗi bậc thang gắn một chiếc lắc nhỏ để cảnh báo mỗi bước leo lên tránh bị vấp ngã, hoặc bậc thang bị mục hỏng. Ban đêm, họ sẽ kéo chiếc thang này lên để không một ai có thể tiếp cận ngôi nhà của họ.
Kết cấu ngôi nhà của người Korowai thường có một gian phòng lớn, không bị chia cắt, đủ chỗ cho 5 - 12 người sinh sống. Không chỉ có người thân trong gia đình, những con vật nuôi cũng được người Korowai mang lên cho sống chung như những thành viên trong nhà. Thông thường, một ngôi nhà sẽ có tuổi thọ khoảng 5 năm.
Sau khi hoàn thành ngôi nhà của mình, nhà mới sẽ được ban phước lành bằng cách bôi mỡ động vật ở cửa chính và bậc thang. Do những ngôi nhà xây dựng cách xa nhau, nên người Korowai thường tự nghĩ ra cách tự bảo vệ gia đình mình: Trong bán kính 20m quanh ngôi nhà, họ chặt hết cây cao, cỏ và để chúng tự khô héo. Như vậy, họ đã có một khoảng không cần thiết để quan sát và phát hiện những dấu hiệu bất thường.
Tất nhiên, mối nguy hại nhất với những ngôi nhà xây bằng cành cây dễ cháy là lửa, vì vậy là khu vực nấu ăn được người Korowai thiết kế đặc biệt, nằm phía dưới ngôi nhà, trên mặt đất và có khoảng cách với ngôi nhà, tránh những trường hợp lửa bùng lên nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Bếp của họ thường được làm từ đất sét, phía trên có chiếc giỏ lớn để đựng củi khô, hay dùng để sấy khô các vật dụng khác.
Bột cọ Sago và ấu trùng là món ăn ưa thích của người Korowai. |
Xa lánh thế giới bên ngoài
Người Korowai không có một hình dung nào về thế giới bên ngoài và thường tránh xa người lạ. Với lãnh thổ của mình, họ bảo vệ rất nghiêm ngặt, ngay cả các bộ tộc láng giềng muốn đến cũng phải xin phép trước.
Cho đến khi một nhà nhân chủng học tiến hành nghiên cứu về bộ lạc, những người Korowai này mới biết tới sự tồn tại của những người khác bên ngoài thế giới của họ, trước đó họ không hề biết rằng ngoài họ ra còn có những người khác sinh sống.
Từ những năm 1990, khi được phát hiện ra thì đồng thời nhiều người bắt đầu tìm kiếm và khai thác trầm hương ở khu vực sống của người Korowai. Năm 1997, 1kg trầm hương có giá trị lên tới 400 USD khi đem bán cho thương nhân và khi đem bán vào thị trường Trung Đông và châu Âu thì có giá lên tới 1.000 USD.
Tuy nhiên, cuộc khai thác trầm hương đã để lại hậu quả tai hại, nạn mại dâm bắt đầu xuất hiện tới khu rừng bởi những người văn minh và khiến cho dịch AIDS lan tràn khắp các cánh rừng Papua. Chỉ mãi đến năm 1999, việc khai thác trầm hương này mới chấm dứt.
Ngày nay, bộ tộc này đã biết đến sự tồn tại của thế giới văn minh, tuy nhiên, họ vẫn trốn tránh, không quan tâm đến các dân tộc khác và không muốn tiếp xúc. Họ muốn sống như tổ tiên của họ - trong thế giới của riêng mình, nơi mà mọi việc rất dễ hiểu, đơn giản và quá quen thuộc. Ngay cả khi bệnh tật cướp đi người thân, họ cũng không hoảng loạn mà cho rằng người anh em ra đi là do thần linh kêu gọi.../.