Kỷ niệm 110 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 - 5/6/2021): Nền công lý vĩ đại của dân tộc ta

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Dưới sự bất công của chế độ thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước và trở thành ngọn cờ đấu tranh vì công lý cho dân tộc Việt Nam.
Biểu diễn mừng Ngày Quốc khánh tại Tượng đài Bác Hồ ở trước trụ sở UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
Biểu diễn mừng Ngày Quốc khánh tại Tượng đài Bác Hồ ở trước trụ sở UBND Thành phố Hồ Chí Minh.

Bởi vậy, sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đã định hình nên một nền công lý mới cho nhân dân Việt Nam.

Vạch mặt nền công lý giả tạo!

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tại Việt Nam, với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897-1914), nhân dân ta ngày càng bần cùng. Vậy nhưng trong trường học của bọn thực dân, khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của Đại Cách mạng Pháp 1789 lại được khoe khoang hết cỡ.

Bởi vậy, khi học trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba (1906-1908) và sau đó là trường Quốc Học Huế (1908-1909), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác bỏ sự tuyên truyền dối trái đó của chế độ thực dân Pháp.

Ngày 5/6/1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên tàu L’Admiral Latouche Trévill (một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Chargeurs Réunis của Pháp) với vai trò phụ bếp, rời bến cảng Nhà Rồng ra nước ngoài tìm đường cứu nước.

Ngày 7/6/1911, lần đầu tiên Người đặt chân lên đất Pháp. Người chứng kiến ở nước Pháp cũng có những người nghèo như ở xứ sở của mình. Người nói với một người bạn: “Tại sao người Pháp không ‘khai hoá’ đồng bào của nước họ trước khi đi ‘khai hoá’ chúng ta?”.

Năm 1912, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Chargeurs Réunis của Pháp đi vòng quanh châu Phi và đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Algérie, Tunisie, Congo, Dahomey, Sénégal, Réunion...

Đến đâu Người cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Người nhận ra: “Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”.

Đến nước Mỹ có bức tượng Nữ thần Tự do nổi tiếng trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về công lý ở đất nước này như sau: “Linsơ là tên một chủ đồn điền ở bang Viếcgini vừa là địa chủ, vừa là quan toà.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong Đại hội Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp năm 1920 (ảnh tư liệu).

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong Đại hội Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp năm 1920 (ảnh tư liệu).

Lợi dụng tình hình rối ren trong cuộc chiến tranh giành độc lập, hắn thâu tóm toàn bộ quyền hành trong quận. Những người thuộc phái bảo hoàng và những người thuộc phái bảo thủ bị hắn trừng phạt rất dã man, không cần xét xử, không cần án từ gì cả. Nhờ bọn chủ nô, nhờ đảng Ku Klux Klan và những tổ chức bí mật khác, nên tục hành hình kiểu Linsơ, một tục không hợp pháp và man rợ trở thành phổ biến và kéo dài mãi ở các bang trong Liên bang Mỹ.

Sau khi người da đen được giải phóng, tục đó càng trở nên vô nhân đạo, và đặc biệt chĩa vào người da đen... Trong số 78 người da đen bị hành hình kiểu Linsơ nǎm 1919, có 11 người bị thiêu sống, 3 người bị thiêu sau khi đã bị giết, 31 người bị bắn chết, 3 người bị hành hạ cho đến chết, 1 người bị chặt ra làm nhiều mảnh, 1 người bị dìm chết dưới nước, 11 người bị giết bằng nhiều cách khác” (trích “Hành hình kiểu Linsơ - Một phương diện ít người biết về nền văn minh Mỹ”).

Đại diện Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gồm 8 điểm đến Hội nghị Hòa bình Versailles vào ngày 18/6/1919, đòi Chính phủ Pháp ân xá các tù chính trị, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

Trong 8 nội dung của bản Yêu sách có hai nội dung liên quan trực tiếp đến công lý. Đó là: “Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lý như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam” và “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 2/8/1919, bài “Vấn đề bản xứ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) cũng nhắc lại những nội dung chính Bản yêu sách và khẳng định nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là chính đáng.

Trong bài báo này, Người viết: “Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca...

Còn công lý, đối với người bản xứ, nó tồn tại như thế này đây: Người Âu nào đã giết chết, tàn sát hoặc cưỡng dâm người bản xứ, thì trong trường hợp vụ án không thể được ỉm hoàn toàn, anh ta chắc mẩm rằng mình được toà án tha bổng, mình ra toà chẳng qua là chuyện hình thức”.

Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), trong chương 8 mang tên “Công lý”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về nền công lý mà nước Pháp “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” mang lại cho người dân Việt Nam như sau: “Thế thì tại sao ở Đông Dương, ông người Pháp nọ bắn vỡ sọ một người Trung Kỳ bằng súng lục; ông viên chức Pháp kia nhốt một người Bắc Kỳ vào cũi chó sau khi đánh đập tàn nhẫn anh ta; ông thầu khoán Pháp này trói tay một người Nam Kỳ cho chó cắn, rồi đem giết đi; ông thợ máy Pháp kia “hạ sát” một người An Nam bằng súng săn; ông nhân viên hàng hải Pháp khác xô người gác cầu bản xứ vào đống than hồng cho chết, v.v. và v.v. lại không bị trừng trị?...

Trong khi tính mạng một con người An Nam bị rẻ rúng không đáng giá một trinh, thì ngài Tổng Thanh tra Rêna chỉ bị sướt một chút da ở cánh tay lại được lĩnh đến 120.000 phrăng tiền bồi thường”.

Ở một đoạn khác của tác phẩm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng châm biếm chế độ thực dân Pháp: “Giá mà mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, như người ta thường nói, thì tuổi thọ của ông Xarô, toàn quyền Đông Dương, phải dài ghê lắm mới đủ để cho ông ngồi hết hạn tù. Vì rằng mỗi năm ông sẽ bị phạt ít ra là một triệu ba mươi lăm vạn (1.350.000) tháng tù về tội mỗi năm bán cho người An Nam trên mười lăm vạn kilôgam thuốc phiện...”.

Bởi vậy, Người châm biếm nền công lý thực dân: “Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đông Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội, và nhất là người vô tội”.

Như vậy, trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến các nước tư bản tiên tiến nhất lúc bấy giờ là Pháp, Mỹ, Anh... Người nhận ra bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa là: “trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”, “cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi”.

Sau này, trong “Tuyên ngôn Độc lập” (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại nền công lý này: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ…

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa...

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man... Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”.

Đến với nền công lý vĩ đại!

Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), tài liệu giảng dạy cho những hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.

Là người sáng lập nhà nước dân chủ ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo hiến pháp (1946 và 1959), ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.

Khi bàn về công lý của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phác họa một nền công lý chân chính là phải đối lập với nền công lý giả tạo dựa trên sự bất bình đẳng và chà đạp quyền con người.

Vì lẽ đó, ngay sau khi thành lập nhà nước cách mạng, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã ban hành Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 quy định: “Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý” (Điều 47); khi các Phụ thẩm nhậm chức phải tuyên thệ: “Tôi thề trước công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi hay vì tư lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào. Tôi sẽ cứ công bằng mà xét định mọi việc” (Điều 25).

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực chấp hành nghiêm luật pháp. Các đồng chí phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh kể rằng một lần trên đường đi, gặp đèn đỏ ở ngã tư xe chở Người phải dừng lại. Một đồng chí bảo vệ định đến bục cảnh sát giao thông yêu cầu bật đèn xanh mở đường cho xe Bác, thấy vậy Bác ngăn lại và nói: “Các chú không được làm như thế. Phải gương mẫu tôn trọng luật lệ giao thông, không nên bắt người khác nhường quyền ưu tiên cho mình”.

Trong thư chúc mừng năm mới năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng vào những người yêu chuộng công lý trên thế giới sẽ góp sức lực trong việc chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ tại Việt Nam: “Thay mặt nhân dân cả nước ta, tôi nhiệt liệt chúc mừng và cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước bầu bạn và nhân dân yêu chuộng hoà bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, đã hết lòng ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam”.

Tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, Tiến sĩ Modagat Ahmet (Giám đốc UNESCO phụ trách khu vực văn hóa châu Á - Thái Bình Dương) đã nhận định: “Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân loại bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại mang lại viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”.

Đọc thêm