Làng nuôi đẻ ở Quảng Nam

(PLO) -Những người theo nghề nuôi đẻ (chăm sóc sản phụ sau sinh) đa số đều nhận được mức lương khá cao và luôn ở trong tình trạng kín lịch. Thế nhưng để sống được với nghề, họ luôn dặn lòng phải kiên nhẫn, trách nhiệm, từ tâm.
 

 

Chị Bích và Chị Ngọc kể chuyện nghề nuôi đẻ.
Chị Bích và Chị Ngọc kể chuyện nghề nuôi đẻ.

Nghề không có trường lớp

Chúng tôi tìm về thôn Nông Sơn, xã Điện Phước (thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) vào ngày mồng 9 Tết, thế nhưng, đã có vài người rời làng đi nuôi đẻ như chị Hồ Thị Thúy, Nguyễn Thị Phượng. 

Anh Hồ Nhứt (chồng chị Phượng) cho biết vợ anh đã đến Hội An nuôi đẻ từ ngày mồng 7. Còn chị Lê Thị Ngọc (thường gọi là chị Chín) cho hay, mồng 10 chị khởi hành ra TP. Đà Nẵng, tiếp tục cái nghề mà chị đã làm hơn 15 năm nay.

Theo lời chị Ngọc, năm 1978, chị được nhận vào làm trong nhà giữ trẻ của HTX Điện Phước 1. Để đảm bảo yêu cầu công việc, chị được địa phương đưa đi học sơ cấp kiến thức nuôi trẻ. Sau 10 năm công tác ở đây, vì bận bịu con nhỏ nên chị xin nghỉ. Năm 2000, chị Ngọc bắt đầu nuôi đẻ và giữ mãi nghề này đến nay. 

Nhớ lại chuyện cũ, chị Ngọc kể: “Ngày đó, không ai muốn theo nghề giữ trẻ cả, vì họ ngại phải... chùi đít cho trẻ. Nhưng tôi lại khác, tôi yêu trẻ con nên thích nghề này. Bắt nguồn từ nghề giữ trẻ mà về sau tôi chuyển sang nghề nuôi đẻ, đều là công việc gắn với trẻ con”. 

Ban đầu, nuôi đẻ là nghề “tay trái” của chị Ngọc. Khi đó, mỗi năm chị chỉ nhận vài ca, thời gian còn lại chị làm ruộng. Đến khoảng năm 2005, thấy công việc thuận lợi nên chị chuyển giao ruộng cho người khác và trở thành người nuôi đẻ chuyên nghiệp. 

Trước khi đến với công việc này, chị Ngọc học hỏi kinh nghiệm nuôi đẻ của những người phụ nữ thôn quê, cộng với những gì chị trải qua khi ở cữ. Một ca nuôi đẻ của chị được bắt đầu từ ngày sản phụ đến bệnh viện để sinh và kết thúc khi trẻ được 1 tháng tuổi. Ngày gia chủ mừng trẻ đầy tháng cũng là ngày làm việc cuối cùng của chị. Sau đó, chị bắt đầu một ca mới.

Sau khi mẹ con sản phụ từ bệnh viện về nhà, chị Ngọc chính thức bước vào công việc chính của nuôi đẻ. Sáng chị dậy từ 3 giờ, quạt than để hơ mặt, tay, chân cho sản phụ. Sau đó, chị nấu nếp để rà mặt cho người mẹ vừa sinh, nhằm giúp da hồng hào, tươi tắn. Chiều chị lại nấu nước xông, hơ háp cho em bé. Xen giữa các công việc hơ, háp, xông..., chị nấu cơm, giặt quần áo cho sản phụ và trẻ sơ sinh. 

Gặp những trường hợp trẻ hay khóc, chị còn phải thức cả đêm để ầu ơ cho trẻ ngủ. Vì công việc rất khó nhọc nên những người nuôi đẻ được hưởng mức lương khá cao. Ở thời điểm hiện nay, chị Ngọc nhận mức lương 8 triệu đồng/tháng, nếu nuôi đẻ ở TP. Hồ Chí Minh thì 10 triệu đồng/tháng. So với người dân thôn quê này, lương của chị Ngọc được xem là lương “khủng”.

Thấy chị Ngọc nuôi đẻ có thu nhập cao, nhiều phụ nữ trong thôn cũng tập tành theo nghề này. Họ đến hỏi chị Ngọc cách hơ cho sản phụ như thế nào, tắm cho trẻ làm sao. 1 người, rồi 2 người... đến nay cả thôn đã có 8 người làm nghề nuôi đẻ. Không có trường lớp nào dạy nuôi đẻ nên những người phụ nữ trao đổi kinh nghiệm cho nhau, người đi trước chỉ cho người đi sau. 

Cũng chính không có trường lớp nào nên mỗi người nuôi đẻ có “giáo án” riêng để chăm sóc cho mẹ và bé. Có người dùng muối để xông mặt cho sản phụ nhưng cũng có người xông bằng nước cà rốt. Có người dùng lá bạch đàn, lá sả để sản phụ xông cơ thể, nhưng cũng có người dùng lá chanh, cây mắc cỡ... 

Chị Ngọc cho hay: “Phụ nữ sau khi sinh mà không kiêng cữ, xông hơ kỹ thì sau này xuống sức, xuống sắc nhanh lắm. Nếu được xông hơ bài bản, nước da sẽ hồng hào. Còn đối với bé, hơ kỹ sẽ tốt, tránh được bệnh đường ruột, cảm cúm, sổ mũi…”. 

Không chỉ xông hơ, những người nuôi đẻ còn phải biết cách xử lý khi bé ọc sữa hay nóng sốt, đi lỏng... Rồi họ hướng dẫn người mẹ ăn thức ăn gì để có nhiều sữa cho con bú, khuyên người chồng thường xuyên quan tâm đến người vợ đang ở cữ, giải thích cho gia đình nội ngoại khi sản phụ sinh cháu có giới tính không như ý muốn của họ...

Chị Tuân tâm sự những vui buồn khi chị nuôi đẻ.
Chị Tuân tâm sự những vui buồn khi chị nuôi đẻ.

Vui buồn nghề nuôi đẻ

Theo giới thiệu của chị Ngọc, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với những người nuôi đẻ của thôn Nông Sơn như chị Đoàn Thị Bích, Nguyễn Thị Tuân, Huỳnh Thị Hồng... 

Chị Bích kể, chị làm nghề nuôi đẻ được 10 năm. Trước khi nhận hợp đồng cho một ca, chị giao kèo với gia đình thuê chị rằng, chị sẽ xem họ như người nhà của mình và sản phụ phải hơ háp theo hướng dẫn của chị, ngược lại, chị sẽ ra về. “Mình nhận đồng tiền của họ nên mình phải làm hết trách nhiệm. Làm sao mà người sản phụ khỏe mạnh, hồng hào, em bé xinh tươi thì mình mới yên lòng”. 

Còn chị Tuân thì chia sẻ: “Đa phần sản phụ đều bằng tuổi con của mình. Vả lại, mình cũng là phụ nữ nên có sự đồng cảm và muốn giúp mẹ con sản phụ khỏe sau kỳ “nở nhụy khai hoa”. Hầu hết các chị đều cho biết họ đã đi rất nhiều nơi trong tỉnh, TP. Đà Nẵng và cả TP. Hồ Chí Minh để nuôi đẻ. Cứ hết mỗi ca, họ lại về nhà dăm ba ngày rồi lại đi. Mọi việc đồng áng ở nhà đều nhờ chồng con gánh vác. 

Chị Nguyễn Thị Na (xã Đại Hiệp, Đại Lộc, Quảng Nam) kể, tháng 10/2009, chị sinh đứa con thứ 2 và thuê chị Ngọc nuôi đẻ. Có những hôm, nhà chị không có lá để xông hơ, chị Ngọc phải đi khắp làng để xin lá về nấu và xông cho chị.

Đến bữa cơm, chị Ngọc cứ ép chị ăn nhiều để có sữa cho con bú. Tối đến, khi em bé trở mình khóc, đang ngủ nhưng chị Ngọc cũng bật dậy ôm đứa trẻ ru à ơi. Cho đến bây giờ, chị Na vẫn thầm cảm phục sự tận tâm của chị Ngọc.

Còn với chị Bích, chị không thể nào quên được gia đình mà chị từng nuôi đẻ ở TP. Hồ Chí Minh. Người vợ thiếu máu nên sau khi sinh người rất yếu, da xanh xao. Mỗi khi nhìn người mẹ trẻ, chị lại thắt ruột.

Thay vì dành thời gian nhiều cho việc xông hơ (thông thường, chế độ ăn uống của sản phụ là do gia đình lo), chị luôn quan tâm đến việc nấu thức ăn gì để người mẹ bổ sung máu. Sau một tháng được chị Bích chăm sóc, tình hình sức khỏe của mẹ con sản phụ khá lên thấy rõ. Ngày chị ra về, chị và gia đình sản phụ lưu luyến không muốn rời.  

Công việc nuôi đẻ rất vất vả và những người làm nghề này đều là phụ nữ nông thôn chăm chỉ, chấp nhận làm mọi thứ để đỡ gánh nghèo. Thế nhưng, có nhiều lúc họ gặp những cái nhìn dè bỉu hay sự đối xử phân biệt chủ tớ. Kể lại chuyện cũ nhưng chị Bích vẫn rơm rớm nước mắt. 

Chị kể, có một ca nọ, chị chỉ làm được vài ngày thì nghỉ giữa chừng. Trước khi làm, chị cũng xác định công việc khó nhọc và tự nhủ sẽ không nản lòng. Thế nhưng, một bữa nọ, khi sản phụ ăn cơm xong và đưa phần cơm thừa cho chị ăn khiến chị tủi thân nên quyết tâm ra về.

Còn chị Tuân thì đã phải ra về khi gặp một sản phụ khó tính. Sau khi xong việc xông hơ buổi sáng, chị xin phép gia chủ ra ngoài ăn điểm tâm. Chị chưa ăn xong tô bún thì sản phụ 2 lần gọi về trách chị ăn chậm. Sản phụ liên tục cằn nhằn, trong khi đó, người thân trong gia đình này cũng không thông cảm, chia sẻ với chị Tuân nên chị nhất định chấm dứt hợp đồng. 

Tuy nhiên, cả chị Tuân và chị Bích đều cho hay, rất ít trường hợp như thế, đa phần các chị gặp các gia đình biết thương yêu, trân trọng các chị. Nhiều sản phụ sau khi kết thúc hợp đồng vẫn thường xuyên điện thoại thăm hỏi các chị hoặc nhờ các chị tư vấn cách nuôi con, chăm sóc con. Những dịp lễ, Tết, họ còn dẫn những đứa trẻ mà các chị chăm sóc khi vừa mới chào đời đến thăm các chị.

“Theo được nghề này, ngoài kinh nghiệm, kiến thức về chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, người nuôi đẻ phải có tấm lòng mênh mông của một người mẹ, xem con người ta cũng như con cháu mình”, chị Ngọc kết thúc câu chuyện. 

Những người phụ nữ thôn quê như các chị đã lặng lẽ góp vào các gia đình trẻ những tiếng cười hạnh phúc... 

Đọc thêm