Lễ tưởng nhớ vị sư tổ anh hùng
Theo truyền thuyết của người Dao, vua có hộ vệ yêu tên Bàn Hồ, là một long khuyển mình dài ba thước, lông đen vằn vàng mượt như nhung. Khi Cao Vương - vua nước láng giềng, đánh chiếm biên ải, gây cảnh lầm than cho dân chúng, Bình Vương cử nhiều binh hùng tướng mạnh đến trấn giữ biên ải nhưng không đánh đuổi được Cao Vương. Trong lúc nguy cấp, Bàn Hồ hiến kế hay giúp Bình Vương đánh đuổi được Cao Vương, đem lại bình yên cho dân chúng.
Sau khi lập công, Bàn Hồ bỗng hóa thành chàng trai khôi ngô, tuấn tú, được Bình Vương gả cho tam Công chúa. Họ sinh được 12 con (6 trai và 6 gái). Vua Bình Vương phong vương cho Bàn Hồ, lấy hiệu là Bàn Vương, ban sắc cho 12 người con của Bàn Vương mang 12 họ. Các họ này chính là thủy tổ của các họ tộc người Dao hiện nay. Vào giờ xấu, Bàn Vương bị một con sơn dương dùng sừng đâm ngã và chết tại cây gù hương. Các con cháu Bàn Vương đã chặt cây gù hương làm thân trống, lột da sơn dương làm mặt trống tế lễ Bàn Vương.
Kể từ đó đến nay, qua nhiều thế hệ, con cháu người Dao đều tổ chức cúng tạ Bàn Vương (tiếng Dao gọi là Chẩu đàng) để tưởng nhớ vị sư tổ anh hùng trong lòng dân tộc, giáo dục truyền thống về lòng dũng cảm, tự tin, cũng là dịp cầu mong Bàn Vương che chở cho con cháu được bình an, may mắn.
Sách cúng người Dao ở Hồ Thầu, Hoàng Su Phì (Hà Giang) có đoạn: Bàn Hồ xuất thế trường thủy quốc/Bàn Hồ nghi nghi trí thiên địa/Trí đắc nam đa nữ hựu thủy/Văn thuyết kim triều hữu trạng thỉnh/Bàn Hồ trứ bệnh thị hà nhật/Hà nhân tra thủy trửu tẩy diện/Bàn Hồ hà niên hà nhật tử…
![]() |
Mâm cúng Bàn Vương được chuẩn bị đầy đủ các lễ vật. (Ảnh: Diễm Quỳnh) |
Người Dao coi việc thờ cúng Bàn vương là một việc làm có liên quan đến vận mệnh của mỗi người, mỗi dòng họ và của cả cộng đồng. Trong các nghi lễ lớn của gia đình, dòng họ, người Dao đều phải làm lễ cúng Bàn Vương.
Biểu tượng nguồn gốc và văn hóa dân tộc Dao
Tùy vào mỗi ngành Dao mà thời gian thực hiện lễ cúng khác nhau, nhưng nhìn chung tục cúng Bàn Vương cơ bản giống nhau. Trước lễ cúng Bàn Vương, công việc được đồng bào chuẩn bị rất kỹ lưỡng, như nuôi 2 con lợn (gọi là lợn thần), một để cúng Bàn Vương, một để cúng tổ tiên và các vị thần; đồng thời nấu rượu, để vào hai chum riêng (một chum cúng Bàn Vương, một chum cúng tổ tiên và các vị thần). Trường hợp bị thiên tai mất mùa hoặc điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn thì đồng bào làm lễ cúng nhỏ khất với Bàn Vương, năm sau mùa màng bội thu sẽ làm lễ cúng chính thức.
Có nơi, người Dao lại chuẩn bị các lễ vật như: 01 con lợn làm sạch để cả lòng, tiết; 01 con gà trống; 12 cặp bánh dày (gói lá chuối buộc từng cặp); 01 túm gạo được buộc bằng vải trắng (sài chiên); Giấy bản theo cúng bình thường và 7 siên (chìn shún) (được thầy cúng cắt hình và đục, dập theo hình hoặc khuôn chữ…); 02 chum rượu (01 cúng Bàn Vương, 01 cúng tổ tiên và các vị thần).
Đàn cúng tế Bàn Vương được lập bằng gỗ ở gian giữa nhà, bên cạnh bàn thờ tổ tiên. Trên đàn tế có trang trí giấy nhiều màu, tranh thờ, vải, nhiều đồ vật trang trí kết từ tre nứa…
Trước khi cúng Bàn Vương, các thầy cúng gia đình, dòng họ tham gia lễ phải kiêng 7 ngày, kể từ khi gia chủ đến mời dự lễ là vợ chồng phải cách ly... Khi lấy tranh, gia chủ cũng phải đun nước tắm sạch sẽ, xong mới được vào nơi nơi cất giữ tranh thờ - được coi là chốn linh thiêng đặc biệt.
Lễ cúng Bàn Vương thường được tiến hành theo trình tự: Gia chủ mời ba thầy cúng. Thầy cúng thứ nhất gọi là thầy cả (người Dao Đỏ gọi là vìn nhủng sai) sẽ cúng trả hai lợn thần cho Bàn Vương và các đời tổ tiên; thầy cúng thứ hai (người Dao Đỏ gọi là sai pành piê, người Dao Tiền gọi là diang gòa con) sẽ cúng cầu khấn sức khỏe, thần lúa, thần chăn nuôi; thầy cúng thứ ba (người Dao Tiền gọi là cu sai) cúng trả các lễ vật cho các vị thần và các bậc tổ tiên gần. Trong lễ cúng, hai cô gái trẻ chưa chồng (biào xía hay ke đàng xía) và hai chàng trai trẻ chưa vợ (biào ton hay ke đàng ton) được mời đến hát đối đáp, kể về công ơn của Bàn Vương.
Đúng ngày lành, giờ tốt, ba thầy cúng được mời đến nhà gia chủ làm lễ lập đàn cúng. Con lợn cúng thần được đưa lên đàn cúng để cúng gia tiên và Bàn Vương. Thầy cúng treo hai bộ tranh Tam Thanh cạnh ban thờ tổ tiên (chỉ những người làm thầy cúng mới có bộ tranh này), làm phép tẩy uế, vẩy nước phép khắp nhà, làm phép trấn an, dán các bùa phép (viết bằng chữ Nôm Dao trên giấy bản) quanh nhà, rồi khấn mời ma Bàn Vương, tổ tiên và các thần cùng âm binh của các thầy về dự lễ chẩu đàng. Hai đôi nam nữ (biào xía và biào ton) đứng sau các thầy vái lạy, đón chào các “ma” tổ tiên, “ma” Bàn Vương và các thần, thánh.
![]() |
Người Dao nổi kèn trống thông báo buổi lễ cúng Bàn Vương bắt đầu. (Ảnh: Việt Cường) |
Trên đàn cúng, sắp đặt lễ vật gồm: một con lợn (lợn thần) đã mổ, một bát gạo, một bát nước, một chai rượu, một ít tiền âm phủ, 5 chiếc chén và 5 đôi đũa. Ba thầy cúng và có thêm ba người đàn ông đứng tuổi ngồi vào hai ghế dài kê song song đối diện hai bên đàn cúng. Thầy cả trịnh trọng khấn, tế lễ, dâng lợn thần cho Bàn Vương, cầu mong Bàn Vương phù hộ cho con cháu trong gia đình và gia tộc. Sau đó, hai thầy phụ và ba người đàn ông lần lượt đọc những bài cúng kể về sự khai thiên lập địa, sự tích nạn hồng thủy, quá trình chuyển cư đầy gian truân của người Dao…
Tiếp đó, hai đôi nam nữ hát đối đáp kể về công ơn đã sinh ra các họ người Dao của Bàn Vương. Những người phụ lễ bày tiếp con lợn thần thứ hai đã mổ lên bàn cúng ở gần ban thờ tổ tiên cùng các lễ vật: gạo, rượu, bánh… để thầy cả cúng tế lễ các bậc tổ tiên, các vị thần, thánh của gia chủ và dòng họ của gia chủ.
Tiếp theo là các điệu múa được mường tượng hóa như: múa bắt rùa, múa chuông…, với 6 chiếc áo, các thầy cúng lần lượt tái hiện lại những điệu múa cổ, một nghi thức không thể thiếu trong lễ cúng Bàn Vương.
Trong lễ cúng Bàn Vương, người Dao có một số kiêng kỵ: các thầy cúng và tất cả mọi người dự lễ phải ăn chay, không ai được quở mắng nhau, vợ chồng gia chủ phải cách ly, lúc ra về không ai được chê bai…
Sau khi cúng tế Bàn Vương, tổ tiên, các vị thần, thánh của gia chủ và gia tộc của gia chủ, các thầy cúng hóa tiền, vàng và làm lễ tiễn đưa Bàn Vương, tổ tiên, các vị thần, thánh về lại cõi âm. Các biào xía, biào ton hát bài tiễn đưa và vái chào từ biệt Bàn Vương, “ma” các bậc tổ tiên, các vị thần, thánh.
Lễ cúng Bàn Vương trước đây thường diễn ra trong 3 ngày 3 đêm, ngày nay được rút ngắn nhưng vẫn giữ được sự linh thiêng và giá trị nhân văn.
Tục thờ cúng Bàn Vương là nét sinh hoạt tín ngưỡng đặc biệt của người Dao, mang tính biểu tượng cho sự thống nhất nguồn gốc và văn hóa dân tộc. Lễ cúng Bàn Vương thể hiện tinh thần luôn nhớ đến nguồn cội cùng niềm tin vào sự linh thiêng phù hộ của tổ tiên cho những điều tốt đẹp trong đời sống.
Thực hành nghi lễ nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân; giúp gắn kết cộng đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Tín ngưỡng thờ cúng Bàn Vương còn trở thành sợi dây liên kết các mối quan hệ gia đình, dòng họ và cộng đồng bản làng…
Đây là môi trường giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, trao truyền các bài cúng, hình thức thực hiện nghi lễ… cho thế hệ kế cận, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao Đỏ.
Với giá trị tiêu biểu, lễ cúng Bàn Vương của người Dao Đỏ được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 779/QĐ-BVHTTDL ngày 04/4/2022.